câu hỏi về văn hóa ẩm thực việt nam
Mỗi miền có những đặc trưng riêng về đặc điểm tự nhiên, sinh hoạt, sản xuất và phong tục tập quán. Từ đó hình thành nền văn hóa ẩm thực riêng cho từng miền, mỗi miền có những cách chế biến, cách thưởng thức món ăn khác nhau, điều này càng tạo cho ẩm thực
Bài tiểu luận về văn hóa ẩm thực Việt Nam là đề tài do sinh viên thực hiện trong quá trình học tập. Tài liệu là những chắc lọc kiến thức về văn hóa và ẩm thực của Việt Nam, tài liệu đi từ khái quát, giới thiệu về ẩm thực sơ bộ cho đến những nội dung tinh túy
Văn hóa ẩm thực Việt Nam luôn là một đề tài thú vị. Ẩm thực của người Việt không chỉ là những món ăn, công thức chế biến mà đây là một nét văn hóa tự nhiên hình thành trong cuộc sống. Với một đất nước có chiều dài lịch sử lâu đời và vị trí địa lý khác biệt, thì mỗi một vùng miền trên dải
motor matic tidak bisa distarter tapi bisa diengkol. Câu 1 Anh chị hãy cho biết khuynh hướng ẩm thực của người Việt Nam hiện nay? Theo anh chị vì sao VN có khuynh hướng đó? Ẩm thực hay nói đơn giản hơn là ăn và uống vốn là chuyện hằng ngày, rất gần gũi và cũng rất đời thường. Nhưng ở mỗi thời đại khác nhau thì ăn uống lại được quan tâm với những mức độ khác nhau. Ngay từ xa xưa, ông bà ta đã rất coi trong việc ăn uống, thế nên tục ngữ mới có câu “có thực mới vực được đạo”, “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”... Ngày nay, khi cuộc sống ngày một phát triển, nhu cầu của con người ngày một cao hơn, ẩm thực cũng nhờ vào đó mà trở nên hoàn thiện hơn. Vượt ra khỏi giới hạn “ăn no mặc ấm” để đạt đến “ăn ngon mặc đẹp”. Ẩm thực đã không còn đơn thuần là giá trị vật chất, mà xa hơn chính là yếu tố văn hóa, một mảng văn hóa đậm đà, duyên dáng và cốt hướng hiện nay của người Việt Nam chủ yếu là ăn uống sao cho bổ, rẻ, ngon mà vẫn đảm bảo vệ sinh, đảm bảo sức khỏe cho chính những thực phẩm bán ra trên thị trường không còn trong sạch, đồ bảo quản đều có sự can thiệp của hóa chất, khiến cho thức ăn bị ô nhiễm nặng nề, đó cũng là lý do gây nên nhiều căn bệnh hiểm nghèo cho con người. Do vậy, ăn uống làm sao cho sạch, an toàn và ít ô nhiễm chính là một trong những xu hướng ẩm thực đang được ưa chuộng hiện nay. Có thể mỗi người mỗi suy nghĩ trả lời, có thể là chạy theo xu hướng XH, gấp gáp, nhanh….Câu 2 Anh chị hãy cho biết mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo tin ngưỡng và ẩm thực?Ai cũng biết rằng Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa, trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực… đều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống. Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng “Có thực mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việc ăn. Điều đó thể hiện ở câu nói Trời đánh còn tránh miếng ăn và người Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một; người trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu nướng hết sức cẩn thận, chu đáo và tươm tất, bày biện trang trọng và thái độ thành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng, do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói “Mọi hành động của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ, ăn cắp, ăn trộm…”. Thực ra, không hẳn vậy, đây chỉ là thứ tự động thái trong đời sống sinh hoạt cá nhân của mọi con người và còn là một hình thức ngữ pháp trong tiếng Việt mà thôi. Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng hào hiệp. Họ quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người ViệtCũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự cân bằng, hài hòa giữa âm và dương, thiên nhiên và con người. Do đó, đồ ăn thức uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ, nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh thông thường như cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày … Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều môn khoa học thường thức. Như vậy, có thể thấy ẩm thực còn mang tính triết lý, và tìm hiểu về ẩm thực cho ta biết về nhiều lĩnh vực khác thuộc về văn Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Chính các đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống; nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như chó, dê, rùa, thịt rắn, ba ba thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại rau, đậu tương tuy trong cộng đồng thế tục ít người ăn chay trường, chỉ có các sư sãi trong chùa hoặc người bị bệnh buộc phải ăn thực Việt Nam còn đặc trưng với sự trung dùng trong cách phối trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ gia vị để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thìa là, mùi tàu gia vị thực vật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, tỏi, gừng, chanh quả hoặc lá non; các gia vị lên men như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừa Các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển", như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm. Các món ăn kỵ nhau không thể kết hợp trong một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối cũng là nền ẩm thực sử dụng thường xuyên nước mắm, tương, tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm và nồi cơm chung, từ xưa đến nay biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt .Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lộ trong sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới món ăn Trung Hoa ăn bổ thân, món ăn Việt ăn ngon miệng, món ăn Nhật nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc điểm này càng ngày càng phai nhòa và trở nên ít bản sắc trong thời hội ý kiến của tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, cho rằng ẩm thực Việt Nam có 9 đặc trưng• Tính hoà đồng hay đa dạng• Tính ít mỡ.• Tính đậm đà hương vị• Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị.• Tính ngon và lành• Tính dùng đũa.• Tính cộng đồng hay tính tập thể• Tính hiếu khách• Tính dọn thành 3 Anh chị hãy cho biết nét khác biệt cơ bản giữa 1 bữa ăn bao gồm cách chế biếndụng cụ giữa gia đình người Việt Nam và 1 gia đình người Phápgiả định ?Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong một bữa cơm của người Việt và người Pháp có sự khác biệt hoàn toàn về cách thức chế biến cũng như cách sắp xếp bàn ăn, cách ăn uống…Trong bữa ăn của người Việt, người đầu bếpchủ nhà phải luôn sắp xếp sao cho nguyên liệu vừa đủ với số lượng khách; và các dụng cụ nồi, niêu, xoong, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt sạch sẽ. Nấu món ăn nào trước, món ăn nào sau phải hợp lý, thứ tự, thái độ nấu nướng vui vẻ, hứng khởi. Khi dọn ăn luôn có lời mời chào tiếp món ăn chu đáo, ý vị thì làm cho các món ăn ngon thêm bội bàn ăn của người Việt thức ăn đầy bàn, rất nhiều món được bày trên đĩa và trang trí rất đẹp mắt; mà quan trọng nhất đó là có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi. Các dụng cụ dùng trong bữa ăn của người Việt chủ yếu là đũa, bát, đĩa, thìa. Ăn uống rất lễ phép, con cái lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhất, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng, trước khi ăn phải mời người lớn tuổi và khách... người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngàyKhông những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà chúng ta kém đi lòng hào hiệp. Người Việt quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt ăn rất dân chủ, trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng mọi người có thể ăn những món mà họ thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của mỗi người. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của từng người, chứ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Còn khi đến nhà người Pháp, họ có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, một khẩu phần ăn riêng cho từng người trên đĩa và sử dụng bằng dao, thìa, nĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no họ cũng phải cố gắng ăn cho hết. Trên bàn ăn của người Pháp thường là hình vuông, các dụng cụ thường được dùng đó là bộ dao, nĩa và muỗng. Thức ăn được chia theo phần và thường được bày biện trên đĩa, ít được trang trí tỉ mỷ như người Việt. Trong khi ăn, trên bàn ăn của họ luôn có những ly rượu vang để khai vị, hoặc kết hợp trong lúc ăn để cho thức ăn được tiêu hóa dễ dàng hơn. Mọi người trong bữa ăn chỉ biết phần thức ăn của mình cho dù thiếu hay đủ, họ ăn uống rất khoa học nhưng không biết cách cân đối và kết hợp về mặt âm dương trong bữa ăn.
lượt xem 295 download Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ Câu hỏi và đáp án môn thi Văn hóa ẩm thực, Xu hướng ẩm thực, bữa ăn của người Việt... ẩm thực và tôn giáo Câu 1 Anh chị hãy cho biết khuynh hướng ẩm thực của người Việt Nam hiện nay? Theo anh chị vì sao VN có khuynh hướng đó? Câu 2 Anh chị hãy cho biết mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo tin ngưỡng và ẩm thực? Câu 3 Anh chị hãy cho biết nét khác biệt cơ bản giữa 1 bữa ăn bao gồm cách chế biếndụng cụ giữa gia đình người Việt Nam... Chủ đề Văn hóa ẩm thựcXu hướng ẩm thựcbữa ăn của người Việtẩm thực Việt Namkhuynh hướng ẩm thực Nội dung Text Câu hỏi và đáp án môn thi Văn hóa ẩm thực Câu 1 Anh chị hãy cho biết khuynh hướng ẩm thực của người Việt Nam hiện nay? Theo anh chị vì sao VN có khuynh hướng đó? Ẩm thực hay nói đơn giản hơn là ăn và uống vốn là chuyện hằng ngày, rất gần gũi và cũng rất đời thường. Nhưng ở mỗi thời đại khác nhau thì ăn uống lại được quan tâm với những mức độ khác nhau. Ngay từ xa xưa, ông bà ta đã rất coi trong việc ăn uống, thế nên tục ngữ mới có câu “có thực mới vực được đạo”, “ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, “học ăn, học nói, học gói, học mở”... Ngày nay, khi cuộc sống ngày một phát triển, nhu cầu của con người ngày một cao hơn, ẩm thực cũng nhờ vào đó mà trở nên hoàn thiện hơn. Vượt ra khỏi giới hạn “ăn no mặc ấm” để đạt đến “ăn ngon mặc đẹp”. Ẩm thực đã không còn đơn thuần là giá trị vật chất, mà xa hơn chính là yếu tố văn hóa, một mảng văn hóa đậm đà, duyên dáng và cốt cách. Khuynh hướng hiện nay của người Việt Nam chủ yếu là ăn uống sao cho bổ, rẻ, ngon mà vẫn đảm bảo vệ sinh, đảm bảo sức khỏe cho chính mình. Khi những thực phẩm bán ra trên thị trường không còn trong sạch, đồ bảo quản đều có sự can thiệp của hóa chất, khiến cho thức ăn bị ô nhiễm nặng nề, đó cũng là lý do gây nên nhiều căn bệnh hiểm nghèo cho con người. Do vậy, ăn uống làm sao cho sạch, an toàn và ít ô nhiễm chính là một trong những xu hướng ẩm thực đang được ưa chuộng hiện nay. Có thể mỗi người mỗi suy nghĩ trả lời, có thể là chạy theo xu hướng XH, gấp gáp, nhanh…. Câu 2 Anh chị hãy cho biết mối quan hệ giữa dân tộc, tôn giáo tin ngưỡng và ẩm thực? Ai cũng biết rằng Văn hóa ẩm thực là một biểu hiện quan trọng trong đời sống con người, nó cũng hàm chứa những ý nghĩa triết lý. Từ xa xưa, trong dân gian nước ta đã tổng kết thành câu tục ngữ “Học ăn, học nói, học gói, học mở” chủ yếu để nhắc nhở những người mới bước vào đời thì khâu đầu tiên là “học ăn”. Ở các nước khác trên thế giới, ngoài quan niệm dân gian thì các nhà chuyên môn, những người yêu thích, hiểu ẩm thực… đều bàn luận, viết những tài liệu, những cuốn sách hay về nghệ thuật ăn uống. Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Người Việt cho rằng “Có thực mới vực được đạo”, đây là một đặc điểm hết sức biện chứng, coi đó là tiền đề để con người có thể bước vào các lĩnh vực hoạt động khác. Việc ăn là việc trọng mà mỗi người, kể cả trời đất, thánh, thần đều phải tôn trọng việc ăn. Điều đó thể hiện ở câu nói Trời đánh còn tránh miếng ăn và người Việt cũng đối xử với thánh thần thông qua lễ vật dâng cúng. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng thì đồ ăn chiếm vị trí quan trọng số một; người trần gian, con cháu trong nhà không được phép ăn trước nếu như chưa cúng tổ tiên, thần thánh. Những đồ ăn, thức uống dùng trong dâng cúng đều được nấu nướng hết sức cẩn thận, chu đáo và tươm tất, bày biện trang trọng và thái độ thành kính trong cử chỉ, lời nói và ánh mắt. Phải chăng, do cái ăn quan trọng như vậy mà người ta nói “Mọi hành động của người Việt Nam đều lấy ăn làm đầu ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn tiêu, ăn nằm, ăn ngủ, ăn cắp, ăn trộm…”. Thực ra, không hẳn vậy, đây chỉ là thứ tự động thái trong đời sống sinh hoạt cá nhân của mọi con người và còn là một hình thức ngữ pháp trong tiếng Việt mà thôi. Bởi vì, người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngày Không những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà họ kém đi lòng hào hiệp. Họ quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt Cũng như nhiều nước trong khu vực, ẩm thực Việt Nam thể hiện sự cân bằng, hài hòa giữa âm và dương, thiên nhiên và con người. Do đó, đồ ăn thức uống của người Việt thường có tác dụng bổ trợ, nâng cao sức khỏe và chữa một số bệnh thông thường như cảm cúm, ho, các bệnh có liên quan đến dạ dày … Những thầy lang xưa kia thường tinh thông về nhiều môn khoa học thường thức. Như vậy, có thể thấy ẩm thực còn mang tính triết lý, và tìm hiểu về ẩm thực cho ta biết về nhiều lĩnh vực khác thuộc về văn hóa. Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Chính các đặc điểm văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêng của ẩm thực Việt Nam. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụng rất nhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống; nhiều loại nước canh đặc biệt là canh chua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít hơn. Những loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá, cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơn như chó, dê, rùa, thịt rắn, ba ba thường không phải là nguồn thịt chính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nào đó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật được chế biến từ các loại rau, đậu tương tuy trong cộng đồng thế tục ít người ăn chay trường, chỉ có các sư sãi trong chùa hoặc người bị bệnh buộc phải ăn kiêng. Ẩm thực Việt Nam còn đặc trưng với sự trung dùng trong cách phối trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ gia vị để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm như húng thơm, tía tô, kinh giới, hành, thìa là, mùi tàu gia vị thực vật như ớt, hạt tiêu, sả, hẹ, tỏi, gừng, chanh quả hoặc lá non; các gia vị lên men như mẻ, mắm tôm, bỗng rượu, dấm thanh hoặc kẹo đắng, nước cốt dừa Các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển", như món ăn dễ gây lạnh bụng buộc phải có gia vị cay nóng đi kèm. Các món ăn kỵ nhau không thể kết hợp trong một món hay không được ăn cùng lúc vì không ngon, hoặc có khả năng gây hại cho sức khỏe cũng được dân gian đúc kết thành nhiều kinh nghiệm lưu truyền qua nhiều thế hệ. Khi thưởng thức các món ăn, tính chất phối trộn nguyên liệu một cách tổng hợp nói trên càng trở nên rõ nét hơn người Việt ít khi ăn món nào riêng biệt, thưởng thức từng món, mà một bữa ăn thường là sự tổng hòa các món ăn từ đầu đến cuối bữa. Đây cũng là nền ẩm thực sử dụng thường xuyên nước mắm, tương, tương đen. Bát nước mắm dùng chung trên mâm cơm và nồi cơm chung, từ xưa đến nay biểu thị tính cộng đồng gắn bó của người Việt . Một đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khác ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam toát lộ trong sự đối sánh với các nền văn hóa ẩm thực khác trên thế giới món ăn Trung Hoa ăn bổ thân, món ăn Việt ăn ngon miệng, món ăn Nhật nhìn thích mắt. Tuy nhiên, đặc điểm này càng ngày càng phai nhòa và trở nên ít bản sắc trong thời hội nhập. Theo ý kiến của tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, cho rằng ẩm thực Việt Nam có 9 đặc trưng Tính hoà đồng hay đa dạng • Tính ít mỡ. • Tính đậm đà hương vị • Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị. • Tính ngon và lành • Tính dùng đũa. • Tính cộng đồng hay tính tập thể • Tính hiếu khách • Tính dọn thành mâm. • Câu 3 Anh chị hãy cho biết nét khác biệt cơ bản giữa 1 bữa ăn bao gồm cách chế biếndụng cụ giữa gia đình người Việt Nam và 1 gia đình người Phápgiả định ? Đối với dân tộc Việt, cái ăn là cái ăn văn hóa, nó có một ý nghĩa sâu sắc và liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong một bữa cơm của người Việt và người Pháp có sự khác biệt hoàn toàn về cách thức chế biến cũng như cách sắp xếp bàn ăn, cách ăn uống… Trong bữa ăn của người Việt, người đầu bếpchủ nhà phải luôn sắp xếp sao cho nguyên liệu vừa đủ với số lượng khách; và các dụng cụ nồi, niêu, xoong, chảo, bát, đĩa, thìa, dao, thớt sạch sẽ. Nấu món ăn nào trước, món ăn nào sau phải hợp lý, thứ tự, thái độ nấu nướng vui vẻ, hứng khởi. Khi dọn ăn luôn có lời mời chào tiếp món ăn chu đáo, ý vị thì làm cho các món ăn ngon thêm bội phần. Trên bàn ăn của người Việt thức ăn đầy bàn, rất nhiều món được bày trên đĩa và trang trí rất đẹp mắt; mà quan trọng nhất đó là có một nồi cơm, một tô nước mắm để mọi người cùng xới cơm và chan nước mắm ở một nơi. Các dụng cụ dùng trong bữa ăn của người Việt chủ yếu là đũa, bát, đĩa, thìa. Ăn uống rất lễ phép, con cái lớn lên đã theo học ăn, học nói, học gói, học mở. Học ăn là trước nhất, khi ăn phải coi nồi, ngồi coi hướng, trước khi ăn phải mời người lớn tuổi và khách... người Việt lấy bữa ăn làm mốc cho việc phân chia thời gian và công việc trong một ngày Không những tuân theo những quy tắc chung trong việc ăn uống, đối với người Việt Nam, ăn uống có ý nghĩa nội tại trong mọi hoạt động đời sống, trong mọi sinh họat vật chất và tình cảm của con người, thể hiện trong quan niệm về ăn đúng, ăn ngon và ăn đẹp. Người Việt tương đối hiếu khách, dù điều kiện vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng không vì thế mà chúng ta kém đi lòng hào hiệp. Người Việt quan niệm Nhiều no, ít đủ và rất muốn mời được nhiều người khách cùng ăn những món ăn mà mình đã chế biến. Bữa ăn chính là một biểu hiện cộng cảm giữa những người ngồi ăn bên nhau. Mặc dù không phân chia đẳng cấp, nhưng khi ngồi ăn, những vị trí bên mâm cơm, bàn ăn cũng phản ánh, biểu hiện vị trí, ngôi thứ, sự tôn trọng trong gia đình hay trong xã hội. Ngồi bên nồi cơm hay việc bổ sung, tiếp thức ăn cho mọi người thường là người phụ nữ, người nội tướng trong gia đình người Việt. Và dù ai cũng vậy, khi ngồi vào bàn ăn là luôn có ý thức nhường nhịn nhau trong khi ăn ăn trông nồi, ngồi trông hướng là một tiêu chí bắt buộc với mỗi người Việt. Người Việt ăn rất dân chủ, trên bàn dọn bao nhiêu thức ăn, nhưng mọi người có thể ăn những món mà họ thích, hoặc phù hợp với vấn đề bảo vệ sức khỏe của mỗi người. Ăn ít hay ăn nhiều thì tùy theo sức chứa bao tử của từng người, chứ không phải ăn những món không ăn được, hay là ăn không nổi. Như vậy cách của người Việt Nam rất dân chủ. Còn khi đến nhà người Pháp, họ có một thực đơn mà mỗi người một đĩa, một khẩu phần ăn riêng cho từng người trên đĩa và sử dụng bằng dao, thìa, nĩa, ăn không hết sợ vô phép nên nhiều khi không ngon lắm hoặc quá no họ cũng phải cố gắng ăn cho hết. Trên bàn ăn của người Pháp thường là hình vuông, các dụng cụ thường được dùng đó là bộ dao, nĩa và muỗng. Thức ăn được chia theo phần và thường được bày biện trên đĩa, ít được trang trí tỉ mỷ như người Việt. Trong khi ăn, trên bàn ăn của họ luôn có những ly rượu vang để khai vị, hoặc kết hợp trong lúc ăn để cho thức ăn được tiêu hóa dễ dàng hơn. Mọi người trong bữa ăn chỉ biết phần thức ăn của mình cho dù thiếu hay đủ, họ ăn uống rất khoa học nhưng không biết cách cân đối và kết hợp về mặt âm dương trong bữa ăn. Câu 4 Theo anh chị ở Vn vì sao xu hướng hiện nay có nhiều người thích ăn uống những thức ăn dân giã ? Khi những thực phẩm bán ra trên thị trường không còn trong sạch, đồ bảo quản đều có sự can thiệp của hóa chất, khiến cho thức ăn bị ô nhiễm nặng nề, đó cũng là lý do gây nên nhiều căn bệnh hiểm nghèo cho con người. Do vậy, ăn uống làm sao cho sạch, an toàn và ít ô nhiễm chính là một trong những xu hướng ẩm thực đang được ưa chuộng hiện nay. Ở nước ta, sự có mặt ngày càng đông đảo của các nhà hàng và quán ăn dân giã cùng lượng thực khách đông đảo cho thấy số người ăn uống dân giã đang tăng dần trong thời gian gần đây. Người Việt thường trộn mặn với ngọt làm nước mắm, kho thịt, kho cá, rang tép, ướp thịt nướng, luôn luôn có pha một chút đường; mà ăn ngọt quá như chè, ăn dưa hấu hay uống nước dừa xiêm thì cho một chút muối cho âm dương tương xứng. Người Tây khi ăn bưởi thật chua lại cho thêm đường, đã âm lại thêm âm thì âm thịnh dương suy, không đúng theo khoa học ăn uống. Người Việt phần đông không nghiên cứu về thức ăn, nhưng theo truyền thống của cha ông để lại thành ra ăn uống rất khoa học. Người Việt chẳng những để ý đến quân bình âm dương giữa các thức ăn mà còn để ý đến quân bình âm dương giữa người ăn và thức ăn. Khi có người bị cảm, người nấu cháo hỏi cảm lạnh bị mắc mưa, đêm ra ngoài bị cảm sương thì nấu cháo gừng vì cảm lạnh âm vào người phải đem gừng dương vào chế ngự. Nếu cảm nắng bị mặt trời làm cho sốt thì dương đã vào người phải nấu cháo hành âm . Lại nghĩ đến âm dương giữa người ăn và môi trường; mùa hè thời tiết có dương nhiều nên khi ăn có canh chua âm hoặc hải sâm âm ; mùa đông thời tiết có âm nhiều nên ăn thịt nướng. Ta có câu "mùa hè ăn cá sông, mùa đông ăn cá biển" Món ăn dân giã còn tạo cho họ cảm giác yên tâm, không bị ôi nhiễm hay tác động nhiều từ những chất hóa học độc hại. Tâm lý muốn ăn ngon và an toàn là trên hết, sao cho đẩm bảo được sức khỏe cho nên hiện nay xu hướng tìm về với những thức ăn dân giã đang được rất ưa chuộng, có sự kết hợp của những bài thuốc như gà tần thuốc Bắc, nấm linh chi, sâm… Có vô vàn lý do khiến người ta chọn thức ăn dân giã, trong đó chủ yếu là do quan niệm sống, làm đẹp, phòng chống bệnh tật và bảo vệ môi trường…
ĐỀ CƯƠNG VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT NIỆMTheo từ điển tiếng Việt, “ẩm thực” chính là “ăn và uống”. Ăn và uống là nhu cầuchung của nhân loại, không phân biệt màu da, sắc tộc, tôn giáo, chính kiến…, nhưngmỗi cộng đồng dân tộc do sự khác biệt về hoàn cảnh địa lý, môi trường sinh thái, tínngưỡng, truyền thống lịch sử…nên đã có những thức ăn, đồ uống khác nhau, nhữngquan niệm về ăn uống khác nhau…từ đã hình thành những tập quán, phong tục về ănuống khác nhau. Như TS. Trần Ngọc Thêm đã từng nói “Ăn uống là văn hoá, chínhxác hơn là văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên của con người”.* Khái niệm văn hoá ẩm thực là một khái niệm phức tạp và mới mẻ. Chúng ta cóthể hiểu văn hoá ẩm thực như sau Văn hoá ẩm thực là những tập quán và khẩu vị ănuống của con người; những ứng xử của con người trong ăn uống; những tập tục kiênkỵ trong ăn uống; những phương thức chế biến, bày biện món ăn thể hiện giá trị nghệtthuật, thẩm mĩ trong các món ăn; cách thưỏng thức món ăn… Nói như vậy thì từ xaxưa, người Việt Nam đã chú ý tới văn hoá ẩm thực. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”đâu chỉ là vật chất mà còn là ứng xử với gia đình - xã hội. Con người không chỉ biết“Ăn no mặc ấm” mà còn biết “ăn ngon mặc đẹp”. Trong ba cái thú “Ăn – Chơi - Mặc”thì cái ăn được đặc lên hàng đầu. Ăn trở thành một nét văn hoá, và từ lâu người ViệtNam đã biết giữ gìn những nột văn hoá ẩm thực của dân tộc thực, tức ăn uống thể hiện lịch sử của một quốc gia, của nền văn hoá của quốcgia đó. Các món ăn qua từng giai đoạn sẽ nói lên được cuộc sống, con người của giaiđoạn đó và của vùng đất – nơi đã sản sinh ra món ăn mà không đâu có thể làm giốnghệt được. Văn hoá dân gian Việt Nam là một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc,trong đó văn hoá ẩm thực là một nét đặc trưng. Con người đã dần phát triển việc ănuống lên thành một lĩnh vực rộng rãi được nhiều người quan tâm. Nghiên cứu về nghệthuật ăn uống của người Việt nói chung và việc ăn uống của từng miền nói riêng manglại nhiều điều lí thú, có sức hấp dẫn và lôi cuốn mọi SỞ HÌNH THÀNH Đặc điểm lịch sửLịch sử dân tộc Việt Nam có trên 4000 năm. Từ thời Kinh Dương Vương vàHồng Bàng kéo dài khoảng 2551 năm thì lối ăn uống và cách ăn như thế nào không cósử sách nào ghi lại. Tuy nhiên qua những truyền thuyết lưu truyền từ ngày xưa trongdân gian có thể thấy rằng, một số món ăn Việt Nam đã có nguồn gốc từ thời xa xưacủa lịch sử. Ngày nay các chứng tích khảo cổ học đã phần nào làm sáng tỏ các huyềnthoại truyền thuyết về nền văn minh Văn Lang Âu Lạc. Người Việt cổ đã dùng càyđồng do trâu bò kéo, canh tác ruộng đất, làm thủy lợi, làm vườn, trồng rau quả, chănnuôi và đánh bắt cá ở sông hồ, ven biển, ăn cơm nếp, gói bánh dày, bánh chưng. Biểuhiện nổi bật nhất là sự tích chiếc bánh dày và bánh chưng có từ thời vua Hùng thứ thứ bánh này cho đến nay vẫn được quảng đại quần chúng ưa thích. Bánh chưnglà món ăn dân tộc, là yếu tố tạo nên hương vị ngày Tết Nguyên đán, ngày Tết truyềnthống của dân tộc, mà theo tập quán là phải “Thịt mỡ, dưa hành câu đối đỏ, Cây nêu,1tràng pháo, bánh chưng xanh”. Căn cứ vào truyền thuyết về bánh chưng, bánh dàykhông mang tính chất hoang đường này, thì hai món bánh này đã có khoảng 4000năm, vào thời dân tộc Việt Nam bắt đầu dựng nước. Trải qua bao nhiêu thử thách vàbiến cố lịch sử của dân tộc, sự tồn tại của bánh dày và bánh chưng ở một mức độ nàođó cũng nói lên sức mạnh sinh tồn của một dân tộc, nói lên tính chất truyền thống củakĩ thuật nấu ăn Việt Nam được bảo tồn và gìn giữ từ bao đời nay. Chính tính truyềnthống này đã góp phần tạo nên phong cách độc đáo và bản sắc trong ăn uống và cáchchế biến món ăn Việt Nam. Đặc điểm về địa lí và tự nhiênNước ta là một nước nông nghiệp nhiệt đới, do đó cây trồng xanh tốt bốn mùa,gồm đủ các loại rau, củ, quả. Bờ biển dài có nhiều sông, lạch, ngòi, là nguồn cung cấpthủy sản phong phú đa dạng, đủ các chủng loại. Khí hậu nước ta không những thuậnlợi cho việc phát triển cây trồng, trong đó cây lúa là lương thực chính, mà còn thuậnlợi cho việc phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm mà chủ yếu là gà, vịt, lợn, trâu, bò,dê, thỏ,... được phát triển tùy theo từng vùng. Việt Nam có chung nguồn gốc lịch sử,văn hoá, địa lí, kinh tế, vì vậy dù chia làm ba miền Bắc, Trung, Nam nhưng trong chếbiến món ăn vẫn có những tương đồng mang tính thống nhất. Là một nước nôngnghiệp, chủ yếu sản xuất lúa gạo, nên cả ba miền đều lấy cơm làm thức ăn nào cũng thích ăn những món ăn có nước canh, các món ăn đều được nêmbằng muối, nước mắm, dùng các loại rau thơm làm tăng mùi vị. Bên cạnh đó, mỗimiền lại có phương pháp chế biến riêng tạo nên sự phong phú cho món ăn, trở thànhnhững ưu điểm nổi bật trong văn hoá ẩm thực Việt Nam. Việt Nam có điều kiện khíhậu đa dạng, vì vậy các nguồn thực phẩm trong tự nhiên hết sức phong phú. Miền Bắccó khí hậu bốn mùa, miền Trung nắng nóng khắc nghiệt, miền Nam là một vùng đấttốt, sản vật dồi dào, nguồn lương thực, thực phẩm sung túc. Nơi đây có rất nhiềunguồn thực phẩm, từ nông sản cho đến hải sản, và còn là vựa lúa lớn nhất nước. Do đónguồn thực phẩm để chế biến món ăn Việt Nam rất phong phú. Nhưng trước hết taphải nói đến nguồn lương thực chính là gạo. Vì người Việt sử dụng gạo để nấu cơmtrong tất cả các bữa ăn cũng như trong các buổi giỗ, tiệc. Do vị trí địa lí của mình, ViệtNam có một nền văn hoá, chính trị khá đặc biệt. Vị thế địa lý tạo điều kiện cho ViệtNam đón nhận nhiều luồng giao lưu văn hoá khác nhau. Mặt khác, thiên nhiên ViệtNam là điểm xuất phát của văn hoá Việt Nam. Văn hoá là sự thích nghi và biến đổi tựnhiên. Thiên nhiên đặt ra trước con người những thử thách, những thành tố, và vănhoá là sản phẩm của con người, là sự phản ứng, sự trả lời của con người trước nhữngthách đố của tự nhiên. Trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của văn hoá, takhông thể không thừa nhận sự tác động của điều kiện tự nhiên và xã hội. Ở nước ta domỗi vùng có những điều kiện tự nhiên và xã hội khác nhau nên sự phát triển của vănhoá ở mỗi vùng cũng khác mỗi vùng của đất nước lại có một tập quán ăn uống riêng, tạo ra một nét đặcsắc riêng biệt không lẫn với nơi khác. Từ Bắc, Trung, Nam, mỗi vùng miền, món ănđều có một phong vị riêng, đặc trưng của miền đất mà ở nơi đó món ăn được hình2thành và hoàn thiện. Ở miền Bắc, do lịch sử đất nước phải chịu sự đô hộ của TrungHoa trong khoảng thời gian dài, vì vậy nền văn hoá, quan niệm sống ở đây cũng phầnnào chịu ảnh hưởng. Trong giai đoạn hiện nay thì việc thay đổi, biến thiên về quanniệm, văn hoá là điều tất yếu nhằm có sự hòa nhập cần thiết với thế giới. Sự thay đổicũng như việc tiếp thu cái hay của các nước trên thế giới là cần thiết, tuy nhiên ngườiViệt vẫn gìn giữ và phát huy bản sắc dân tộc, kể cả trong ăn uống và phát triển nóngày càng cao hơn để cho những người con xa xứ hay những thực khách nước ngoàikhi ăn những món ăn mang đậm chất Việt Nam cảm thấy như đang được trở về vớiquê cha đất tổ, với tuổi ấu thơ bên người thân, bạn LOẠIHệ thống các món ăn Việt Nam được phân thành 4 loại Món ăn thuần Việt những món ăn này mặc dù trải qua nhiều thăng trầm, biếncố lịch sử vẫn không diễn tả được và mang đậm nét Việt Nam. Món ăn ảnh hưởng ẩm thực Trung Hoa với cách chế biến có sử dựng dầu,mỡ và các gia vị thuốc Bắc trong món ăn. Món ăn ảnh hưởng của ẩm thực Pháp sử dụng nhiều loại sốt cà chua ngọt,sốt chua cay. Món ăn ảnh hưởng của ẩm thực Ấn Độ và các nước Đông Nam Á mangđậm dấu ấn của các quốc hia có nguồn gốc từ Ấn Độ như hồ tiêu, quế,… ĐIỂM – cho ví dụViệt Nam là một nước nông nghiệp thuộc về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc, Trung, Nam. Chínhcác đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định những đặc điểm riêngcủa ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị đặc trưng. Điều đó gópphần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng. Đây là một văn hóa ăn uống sử dụngrất nhiều loại rau luộc, xào, làm dưa, ăn sống; nhiều loại nước canh đặc biệt là canhchua, trong khi đó số lượng các món ăn có dinh dưỡng từ động vật thường ít loại thịt được dùng phổ biến nhất là thịt lợn, bò, gà, ngan, vịt, các loại tôm, cá,cua, ốc, hến, trai, sò Những món ăn chế biến từ những loại thịt ít thông dụng hơnnhư thịt chó, thịt dê, thịt rùa, thịt rắn, thịt ba ba... thường không phải là nguồn thịtchính, nhiều khi được coi là đặc sản và chỉ được sử dụng trong một dịp liên hoan nàođó với rượu uống kèm. Người Việt cũng có một số món ăn chay theo đạo Phật đượcchế biến từ các loại thực vật, không có nguồn thực phẩm từ động vật. Tuy nhiên, trongcộng đồng thì lại có rất ít người ăn chay trường, chỉ có các sư thầy trong các chùahoặc người bị bệnh nặng buộc phải ăn đặc điểm ít nhiều cũng phân biệt ẩm thực Việt Nam với một số nước khácẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ănbổ. Bởi vậy trong hệ thống ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầmnhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên về bày biện có tính thẩm mỹcao độ như ẩm thực Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để món ăn3được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù khôngthực sự bổ béo ví dụ như các món măng, chân cánh gà, phủ tạng động vật....Có 3 đặc điểmTính tổng hợp trong nguyên liệu, cách pha chế, các cách chế biếnTính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt trước hết thể hiện trongcách chế biến đồ ăn. Hầu hết các món ăn của người Việt đều là sản phẩm của sự phachế tổng hợp các loại rau với các loại gia vị, hoa quả, cá tôm…Dù là bình dân như xôi ngô, ốc nấu, phở… cầu kỳ như bánh chưng, nem ránhay đơn giản như rau sống, nước chấm…tất cả đều được tạo nên từ rất nhiều nguyênliệu. Chúng tổng hợp lại với nhau, bổ sung lẫn nhau để cho ta những món ăn có đủngũ chất bột-nước-khoáng-đạm-béo; nó không những có giá trị dinh dưỡng cao màcòn tạo nên một hương vị vừa độc đáo ngon miệng, vừa nồng nàn khó quên của đủngũ vị chua-cay-ngọt-mặn-đắng, lại vừa có cái đẹp hài hoà của đủ ngũ sắc trắngxanh-vàng-đỏ-đen. Chỉ một bát nước chấm người nội trợ có thể pha chế rất kỳ côngsao cho đủ vị cái mặn đậm đà của nước mắm; cái cay của gừng, ớt, hạt tiêu, cái chuacủa chanh, dấm; cái ngọt của đường; cái mùi vị đặc biệt của tỏiTính tổng hợp được thể hiện ngay trong cách ăn. Mâm cơm của người Việt dọnra bao giờ cũng có đồng thời nhiều món cơm, canh, rau, thịt, xào, nấu, luộc, kho…Suốt bữa ăn là cả một quá trình tổng hợp các món ăn. Bất cứ bát cơm nào cũng đã làkết quả tổng hợp rồi trong một miếng ăn có thể đã có đủ cả cơm-canh-rau-thịt. Điềunày khác hẳn cách ăn lần lượt đưa ra từng món theo lối phân tích của người phươngTây. Tính tổng hợp còn thể hiện trong tục ăn trầu cau và hút thuốc lào của người miếng trầu, hay điếu thuốc cũng quyện đủ vị cay, đắng, mặn nồng của ăn tổng hợp của người Việt Nam tác động vào đủ mọi giác quan mũingửi mùi thơm ngào ngạt từ những món ăn vừa bưng lên, mắt nhìn màu sắc hài hoàcủa bàn ăn, lưỡi nếm vị ngon của đồ ăn, tai nghe tiếng kêu giòn tan của thức ăn ngườiViệt khi uống trà ngon thích chép miệng; uống rượu ngon thích “khà” lên mấy tiếngvà đôi khi nếu được mó tay vào cầm thức ăn mà đưa lên miệng xé như ăn thịt gàlược thì lại thấy ngon!Cái ngon của bữa ăn người Việt Nam là tổng hợp cái ngon của mọi yếu tố cóthức ăn ngon mà không hợp thời tiết thì không ngon; hợp thời tiết mà không có chỗ ănngon thì không ngon; có chỗ ăn ngon mà không có bạn bè tâm giao cùng ăn thì khôngngon; có bạn bè tâm giao mà không khí bữa ăn không vui vẻ thì cũng không ngon…4Tính mực thướcnét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính mực thước là biểuhiện của khuynh hướng quân Bình trong âm dương nó đòi hỏi phải "ăn chậm nhai kỹ"khi ăn cơm khách một mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủnhà, mặt khác phải chừa ra một ít trong các dĩa đồ ăn để tỏ ra mình không chết đóikhông tham ăn, tục ngữ có câu "Ăn hết bị đòn, ăn còn mất vợ"tính cộng đồng và một thước trong bữa ăn thể hiện qua nồi cơm và tráng nước mắmTính biện chứng, linh hoạt linh hoạt trong cách ăn,dụng cụ ăn-tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăntính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn truyền thốngsử dụng dụng cụ là đôi đũa đó là cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chimnhặt hạt xuất phát từ những thứ không thể dùng tay bốc hoặc mò tay vào được cơm,cá, nước mắm.. đôi đũa của người Việt Nam thực hiện một cách cực kì linh hoạt hàngloạt chức năng khác nhau gắp, và, xé, xẻ, dầm, khoắng, trộn, vét, và... nối cho cánhtay dài ra để gắp thức ăn xa! Người Việt Nam chế ra rất nhiều loại đũa đôi đũa trebình dàn vừa dẻo vừa dai, gặp đồ ăn nóng đến đâu cũng không hỏng; đũa mun càngdùng càng bóng; đũa sơn mài, đũa khảm trai như một tác phẩm nghệ thuật thu nhỏ;đũa ngọc quý và mát; đũa ngà quý, mát và làm thức ăn mau nguội; đũa kim giao mộtloại gỗ quý và hiếm hiện chỉ còn ở rừng Cúc Phương và đũa bạc có khảnăng pháthiện được chất độc trong thức ăn..Biểu hiện không kém quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn làchỗ người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương bao gồm 3mặt liên quan mật thiết với nhau là âm dương của thức ăn,sự quân Bình âm dươngtrong cơ thể và sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiênđể tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thứcăn theo 5 mức âm nhưng ứng với ngũ hành hàn lạnh nhiệt nóng ôn ẩm lươngmát Bình trung tínhđể tạo nên sự quân Bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món dễ chếbiến có tính đến sự quân Bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn nhưnhững vị thuốc để điều chỉnh sự mất quân Bình âm dương trong cơ thể mọi bệnh tậtđều do mất quân Bình âm dương Vì vậy mọi người ốm do quá ân cần ăn đồ Dương vàngược lại ốm đau quá Dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng bằng đã mấtđể đảm bảo quân Bình âm dương giữa con người với môi trường người Việt cótập quán ăn uống theo vùng khí hậu theo mùa tức là tận dụng tối đa môi trường tự5nhiên để phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng biện chứnggiữa con người và môi trường thức ăn theo mùa hay mùa nào thức nấy- tính biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thờitiết phải đúng mùa và người Việt Nam sang ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giátrị chuối sau, cau trước, đầu chép, mép trôi, môi mè lườn trắm,.. thời điểm có giá trịcòn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương chuyển hóa đang ở dạng âm dươngcân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu dinh dưỡng trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ongnon ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN NHẤT VỀ VĂN HÓA ẨM THỰC VÙNGMIỀN NƠI MÌNH SINH SỐNG. VÍ DỤ MÓN ĂNĐồ ăn miền Trung được biết đến với vị cay nồng, với tất cả tính chất đặc sắc củanó thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc vàmiền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Bình Định rất nổi tiếng với mắm tômchua và các loại mắm ruốc. Đặc biệt, ẩm thực Huế do ảnh hưởng từ phong cách ẩmthực hoàng gia, cho nên rất cầu kỳ trong chế biến và trình bày. Một mặt khác, do địaphương không có nhiều sản vật mà ẩm thực hoàng gia lại đòi hỏi số lượng lớn món,nên mỗi loại nguyên liệu đều được chế biến rất đa dạng với trong nhiều món
Uploaded byKhánh Vy 100% found this document useful 1 vote4K views6 pagesCopyright© © All Rights ReservedShare this documentDid you find this document useful?Is this content inappropriate?Report this Document100% found this document useful 1 vote4K views6 pagescâu hỏi về ẩm thực miền Bắc- NamUploaded byKhánh Vy Full descriptionJump to Page You are on page 1of 6Search inside document You're Reading a Free Preview Pages 4 to 5 are not shown in this preview. Buy the Full Version Reward Your CuriosityEverything you want to Anywhere. Any Commitment. Cancel anytime.
Ẩm Thực Việt Nam Từ Sự Đa Dạng Đến Những Ảnh Hưởng Qua Văn Hóa Sự thân thiện hiếu khách của người dân cùng với vẻ đẹp tự nhiên của đất nước, ẩm thực Việt nam đã tự khẳng định bản sắc riêng của mình với những quốc gia khác trên thế giới. Chỉ riêng trong nước, món ăn việt đã có sự khác biệt rõ nét suốt từ Bắc đến Trung và Nam. Ngoài ra, ẩm thực việt còn có tiếng ít béo mang đậm hương vị được chế biến từ các loại thảo mộc tạo nên phong cách đặc trưng cho những món ăn của từng miền. Sự đa dạng theo từng vùng miền +Ẩm thực miền bắc, nổi tiếng cầu kỳ và mang đậm chất nêm trung hòa không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Người dân ở đây thường nêm gia vị theo khẩu vị riêng của họ. Mặc dù Nước chấm mắm tôm thường không thể thiếu trong các bữa ăn, người Bắc còn sử dụng các gia vị khác để làm tăng thêm hương vị riêng cho mỗi món. Hà nội - nơi hội tụ tinh hoa ẩm thực miền bắc, được biết đến với nhiều món ăn nổi tiếng, trong đó đặc biệt có Phở, Bún thang, Bún chả, Bún ốc, Cốm VòngCốm làng Vòng và Bánh cuốn Thanh trì. Cho dầu khá cầu kỳ và đa dạng trong từng món ăn, tinh dầu Cà Cuống và Húng Láng Húng quế làng Láng vẫn là gia vị làm điểm nhấn chính mang lại nét riêng biệt cho khẩu vị người Hà nội. +Ẩm thực miền trung, được biết đến với những bữa ăn mang đậm chất no hơn những vùng miền khác. Với những món ăn cay và mặn hơn miền bắc và nam, món ăn ở đây phối trộn màu sắc thiên về đỏ và nâu sẫm; như các loại gia vị được dùng phổ biến ở miền trung là mắm tôm chua và mắm ruốc, đặc biệt, nơi đây còn nổi tiếng về ẩm thực Cung đình tạo nên phong cách ẩm thực đầy bản sắc cho miền trung. Ngày nay, ẩm thực Cung đình mà trước kia chỉ dành cho những gia đình Hoàng tộc, nay được sử dụng để phục vụ cho du khách viếng thăm Huế. Các món ăn Cung đình hòa trộn nhiều màu sắc lôi cuốn cùng với sự trình bày cầu kỳ, có vị cay tự nhiên được chia thành những khẩu phần nhỏ luôn để lại trong lòng du khách bức tranh cung đình lung linh huyền ảo. +Ẩm thực miền Nam, chịu ảnh hưởng nhiều từ Trung quốc, Campuchia và Thái, hầu hết các món ăn thường có vị ngọt và cay hơn. Do điều kiện thổ nhưỡng thuần nông, thức ăn chủ yếu lấy từ nước ngọt và thường được bảo quản khô để sử dụng lâu dài nhưng món ăn địa phương nơi đây không phải vì thế mà kém phần đa dạng. Ngoài món khô cá Lóc không thể thiếu trong các bữa ăn, người dân ở đây còn tận dụng nguồn nguyên liệu sẵn có xung quanh để chế biến ra những món ăn đồng quê vô cùng hấp dẫn khác nhưcá Lóc đắp bùn nướng trui và cháo đậu rắn hổ đất. Ẩm thực miền Nam còn là cái nôi sản sinh ra nhiều món ăn ngon có nguồn gốc từ bún như bún mắm, hủ tiếu Mỹ tho, bún nước lèo Sóc trăng. +Ẩm thực miền sơn cước, với 54 dân tộc hiện diện trên khắp các nẻo đường đất nước, từ đồng bằng đến cao nguyên. Do đặc thù địa lý, ẩm thực Việt nam từ đó cũng trở nên đa dạng, và mang đậm bản sắc riêng theo từng vùng-miền. Người tây nguyên nổi tiếng với món thịt lợn sống trộn với gia vị thảo mộc, còn người vùng tây bắc lại nức tiếng với những món ăn đặc trưng như Phở chua, lợn sữa, vịt quay móc mật, bánh Cóong PhùTày minority people, xôi nếp nướng Thái minority people và thịt chua. Những ảnh hưởng qua ẩm thực của người Việt Trong văn hóa á đông, triết lý âm dương ngũ hành có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều khía cạnh trong đời sống sinh hoạt của người dân, và một trong số đó là ẩm thực. Việt nam cũng không nằm ngoài ảnh hưởng đó. Do vậy, năm yếu tố ngũ hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ luôn được áp dụng một cách khá tinh tế vào các chất bổ dưỡng, vào hương vị và màu sắc tương ứng để tạo nên sự cân bằng trong món ăn Việt nam. Ngũ hành tương sinh giúp cân bằng giữa các thành phần dinh dưỡng như Nước, protein, chất béo, tinh bột và khoáng chất phối hợp hài hòa năm màu sắc tương ứng trong sự trình bày các món ăn như Màu vàng đại diện cho Thổ, màu Đen ứng với Thủy, màu Đỏ tương ứng Hỏa, màu Trắng ứng với Kim và màu Xanh lá thuộc Mộc; là sự hòa trộn tuyệt vời giữa các hương vị Ngọt, Mặn, Đắng, Chua, Cay tạo nên nét riêng cho ẩm thực á đông. Nguyên lý âm dương là sự kết hợp đa dạng các loại thảo mộc với nhiều loại gia vị khác nhau nhằm làm cân bằng và tăng thêm hương vị đậm đà cho món ăn. Chẳng hạn, đối với các món ăn có tính hàn luôn được bổ khuyết với các gia vị có tính nhiệt, chất chua thuộc âm được dùng kèm với chất cay thuộc dương. Sự cân bằng còn thể hiện rõ qua việc chọn lọc thành phần và cách dùng món ăn tùy theo từng mùa và điều kiện thời tiết. Ở xứ bắc, Phở luôn được ăn nóng vào mùa lạnh, trong khi đó thịt vịt được xem là món ăn có tính hàn thường được ăn kèm với nước mắm gừng ấm. Tóm lại, nguyên lý âm dương luôn làm nền tảng cân bằng hài hòa giữa các chất trong ẩm thực hàng ngày của người dân. Văn hóa và tinh thần của ẩm thực Việt Ở Việt nam, ẩm thực được phản ánh qua văn hóa và tinh thần của một người. Văn hóa ẩm thực đóng vai trò quan trọng đối với mọi người, là dịp để giao tiếp xã hội, nơi họp mặt chia sẽ giữ các thành viên gia đình, nơi quyết định tính truyền thống và sự tôn trọng lẫn nhau trong khi ăn. Cụ thể, trong một bữa cơm gia đình truyền thống Việt nam, người trẻ luôn biểu hiện sự lễ phép của mình qua việc mời người già ăn trước. Phong cách ẩm thực còn được biết nhiều qua các câu ca dao tục ngữ “Ăn trông nồi,ngồi trông hướng”; Ăn nhai kỹ, suy nghĩ trước khi nói”.Việc mời khách về dùng bữa cơm với gia đình là sự phản ánh văn hóa xã giao, trong đó, người chủ thường chuẩn bị các món đặc biệt đãi khách để bày tỏ sự tôn trọng của mình, cho dù thức ăn họ chiêu đãi có xu hướng giải trí nhưng qua đó thể hiện được tâm tư tình cảm, sự thân thiện và hiếu khách của con người Việt nam.
câu hỏi về văn hóa ẩm thực việt nam