cây rừng ngập mặn

Hiện, mật độ rừng ngập mặn khoảng 2.500 đến hơn 4.000 cây một ha, tùy từng loại. Chi phí trồng một ha hết hơn 350 triệu đồng. Hà Tĩnh có hơn 700 ha rừng ngập mặn, trải dài ở các huyện Thạch Hà, Nghi Xuân, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh, thị xã Kỳ Anh, TP Hà Tĩnh Tại xã Kỳ Hà có gần 105ha rừng phòng hộ chắn sóng ven biển, những năm gần đây nhiều cây rừng ngập mặn chết rải rác. Tại khoảnh 1, tiểu khu 358B có trên 43ha chủ yếu là cây mắm thì nay đã chết gần 26ha, chiếm hơn nửa diện tích. Tuy nhiên, việc xác định rõ đối tượng (tổ chức, cá nhân) gây ra nguyên nhân cây rừng ngập mặn bị chết tại lô 7-RTM, khoảnh 4, tiểu khu HA tại phường thái này là thực vật rừng ngập mặn như: Đước Rhizophoza, Vẹt Brugniera, Mắm Avicennia, Cóc Lumnitzera Số lồi thực vật ngập mặn ở Cơn Đảo đã được xác định có 46 lồi, trong đó có 28 lồi cây RNM chủ yếu thuộc 14 họ, 18 loài tham gia RNM thuộc 13 họ. Sậy Cây gỗ Cây gỗ Cây gỗ * * * Cây gỗ (4) (5) Cây thảo Cây thảo Cây thảo Cây thân ngầm Cây gỗ * * Cây thảo Cây thảo Cây thảo Cây leo Cây bụi Cây thảo Cây thảo Cây thảo Ghi chú: *: Cây ngập mặn. .. dạng thuốc Khu Dự trữ Sinh quyểnrừng ngập mặn Cần Giờ Mục motor matic tidak bisa distarter tapi bisa diengkol. Rừng ngập mặn chiếm diện tích không nhiều ở hai huyện ven biển tỉnh Thái Bình nhưng rất có ý nghĩa về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường. Phát triển RNM được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng rừng ngập mặn, phân tích điều kiện khí hậu và sinh khí hậu với các ngưỡng sinh thái. Dải ven biển Thái Bình có 14 loài thực vật ngập mặn chủ yếu, liên quan đến các quần xã rừng tự nhiên, quần xã rừng trồng, quần xã thực vật trong đầm nuôi thủy sản và quần xã cỏ tiên phong ở vùng đất mới bồi. Xét trên tổng thể sinh khí hậu khu vực phù hợp phát triển rừng ngập mặn với 14 loài cây này và một số loài nhập trồng từ vùng khác như Nipa fruticans Dừa nước, Lumnitzera littorea Cóc đỏ và Sonneratia apetala Bần không cánh. Thực vật ngập mặn trong khu vực chịu một số tác động bất lợi của điền kiện sinh khí hậu như thời kỳ khô hạn vào đầu mùa đông; thời tiết lạnh trong những đợt gió mùa cực đới hoạt động mạnh; thời tiết nóng trong những tháng mùa hè; bão và áp thấp nhiệt đới. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 2017 90-99 90Sinh khí hậu và phát triển rừng ngập mặn ven biển tỉnh Thái Bình Trần Thị Thúy Vân*, Lưu Thế Anh, Hoàng Lưu Thu Thủy, Lê Bá Biên Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội Nhận ngày 03 tháng 01 năm 2017 Chỉnh sửa ngày 12 tháng 03 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 03 năm 2017 Tóm tắt Rừng ngập mặn chiếm diện tích không nhiều ở hai huyện ven biển tỉnh Thái Bình nhưng rất có ý nghĩa về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường. Phát triển RNM được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu hiện trạng rừng ngập mặn, phân tích điều kiện khí hậu và sinh khí hậu với các ngưỡng sinh thái. Dải ven biển Thái Bình có 14 loài thực vật ngập mặn chủ yếu, liên quan đến các quần xã rừng tự nhiên, quần xã rừng trồng, quần xã thực vật trong đầm nuôi thủy sản và quần xã cỏ tiên phong ở vùng đất mới bồi. Xét trên tổng thể sinh khí hậu khu vực phù hợp phát triển rừng ngập mặn với 14 loài cây này và một số loài nhập trồng từ vùng khác như Nipa fruticans Dừa nước, Lumnitzera littorea Cóc đỏ và Sonneratia apetala Bần không cánh. Thực vật ngập mặn trong khu vực chịu một số tác động bất lợi của điền kiện sinh khí hậu như thời kỳ khô hạn vào đầu mùa đông; thời tiết lạnh trong những đợt gió mùa cực đới hoạt động mạnh; thời tiết nóng trong những tháng mùa hè; bão và áp thấp nhiệt đới. Từ khóa Sinh khí hậu, thực vật ngập mặn, tỉnh Thái Bình. 1. Mở đầu Rừng ngập mặn RNM là một loại rừng đặc biệt có các loài cây gỗ và cây bụi thích nghi với môi trường nước mặn, phát triển ở vùng cửa sông ven biển nhiệt đới và cận nhiệt đới. RNM là một hệ sinh thái hết sức quan trọng, vừa cung cấp nhu cầu về nhiên liệu, thức ăn… cho cộng đồng dân cư ven biển, vừa là bức tường xanh vững chắc chống gió bão, sóng thần, sạt lở, làm sạch môi trường ven biển, hạn chế xâm nhập mặn, bảo vệ nước ngầm, điều hòa khí hậu, duy trì đa dạng sinh học khi có thiên tai và bảo tồn hệ sinh thái ngập nước ven biển…Ở Thái Bình hiện có ha diện tích rừng ngập mặn _______  Tác giả liên hệ. ĐT 84-915341695. Email tranthuyvan_vdl [1], RNM ven biển nói chung và ở tỉnh Thái Bình nói riêng ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của lãnh thổ, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng hiện nay. Thái Bình là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ là nơi tập trung các trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội và có tốc độ phát triển thuộc loại trung bình khá của nước ta. Bên cạnh đó, con người với những giá trị tạo dựng của mình đang ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với những nguy cơ rủi ro của tự nhiên mà RNM ven biển được xem như một giải pháp phi công trình có lợi ích lớn trong bảo vệ quỹ đất, cân bằng sinh thái và tạo tài nguyên cho phát triển một số loại hình kinh tế có ưu thế về mặt kinh tế sinh thái như thăm quan, du lịch, bảo tồn và phát triển các giá trị sinh học. Vân và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 2017 90-99 91Sự phát triển của RNM, bên cạnh những cơ chế, chính sách của chính quyền, ý thức của người dân thì cũng rất cần những nhận thức về biên sinh thái phát triển của chúng. Vì vậy, bài báo này trình bày một khía cạnh sinh thái môi trường phục vụ phát triển hệ sinh thái RNM ven biển - đó là các đặc thù về sinh khí hậu dải ven biển tỉnh Thái Bình. 2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích số liệu thống kê khí hậu Phân tích khí hậu và sinh khí hậu được dựa trên cơ sở chuỗi số liệu quan trắc tại các trạm khí tượng Thái Bình trong khoảng thời gian 55 năm từ 1960 đến 2015; - Phương pháp khảo sát thực địa Điều tra hiện trạng rừng ngập mặn nhằm đánh giá khả năng thích nghi của các loài thực vật ngập mặn trong điều kiện sinh khí hậu của khu vực và đánh giá sự sinh trưởng, phát triển của cây chịu ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố nắng, nhiệt độ không khí, mưa, ẩm, gió,… [2, 3]. - Phương pháp xây dựng biểu đồ sinh khí hậu Các số liệu thống kê khí hậu nêu trên được sử dụng để xây dựng biểu đồ sinh khí hậu của khu vực [4]. Biểu đồ sinh khí hậu được dựa trên quan hệ giữa lượng mưa R mm - nhiệt độ T °C, quan hệ này quyết định tới sự sinh trưởng và phát triển của thực vật - 2T ≥ R điều kiện khô hạn - 2T 1800 mm, thời kỳ khô đối với Hình 1. Biểu đồ sinh khí hậu trạm Thái Bình. chu kỳ sinh trưởng của cây kéo dài 3 tháng XII, I, II nhưng lượng thiếu ẩm không lớn do vậy điều kiện mưa, ẩm trong khu vực chỉ mang tính chất giảm bớt khả năng sinh trưởng và phát triển của cây. Do không có đảo che chắn phía ngoài, hàng năm khu vực chịu tác động của bão, áp thấp nhiệt đới vào mùa mưa, gió mùa đông bắc lạnh vào mùa khô nên không thuận lợi cho một số loài ngập mặn đến định cư [13]. Gió mùa đông Đông Bắc thịnh hành từ tháng XI đến tháng IV mang không khí lạnh, khô, ít mưa. Bão và áp thấp nhiệt đới thường đổ bộ vào Thái Bình và phụ cận thường xuất hiện trong khoảng thời gian từ tháng V đến tháng X, nhiều nhất là trong khoảng tháng VII đến tháng IX, hàng năm. Bão thường có gió từ cấp 8 đến cấp 12. Trung bình mỗi năm Thái Bình chịu ảnh hưởng từ 3 đến 5 cơn bão hoặc áp thấp, trong đó có từ 1 đến 2 cơn bão hoặc áp thấp đổ bộ trực tiếp không những làm phá hủy rừng ngập mặn mà còn gây thiệt hại về người và kinh tế. Những năm gần đây bão có xu hướng gia tăng về cường độ và số lượng cơn bão làm gia tăng các tác động phá hủy này. Sinh khí hậu với phát triển thực vật ngập mặn khu vực ven biển Thái Bình Khu vực ven biển Thái Bình có 14 loài thực vật ngập mặn chủ yếu. Cả 14 loài này đều có diện phân bố rộng ở quy mô thế giới, châu lục hoặc khu vực Đông Nam Á. Vân và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 2017 90-99 96- Các loài có diện phân bố rộng ở quy mô thế giới bao gồm Ráng biển, Sam biển, Mắm biển, Cóc vàng, Cóc kèn, Vẹt dù. Diện phân bố của chúng bao gồm Đông Phi, Nam Á, Đông Nam Á, Bắc Châu Đại dương. Ngoài ra, Ráng biển còn thấy có mặt ở vùng Caribe và Tây Phi. Mắm biển cũng đã ghi nhận có mặt ở Tây Nam Á, nơi có điều kiện khí hậu khô, khắc nghiệt. - Các loài có quy mô phân bố hẹp hơn, giới hạn trong khuôn khổ Đông Nam Á và mở rộng sang Nam Á, Nam của Đông Á, Bắc châu Đại dương bao gồm Ô rô biển, Ô rô, Giá, Sú, Trang, Đâng, Bần chua và Cỏ gấu biển. Tuy nhiên, Trang có diện phân bố tương đối hẹp, hạn chế ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam, đảo Natuna của Indonesia, miền Nam Trung Quốc bao gồm cả đảo Hải Nam, Đài Loan và Nam Nhật Bản. Như vậy loài này có khả năng chịu lạnh tốt. Nhìn chung cả 14 loài thực vật ngập mặn chủ yếu ở Thái Bình đều là những loài có diện phân bố rộng bao trùm lên cả khu vực nghiên cứu nên chúng đều có khả năng phát triển tốt ở đây. Trên thực tế sự tồn tại của các quần xã tự nhiên hay rừng trồng với các cây Bần, Trang, Ô rô, Sú, Đâng, . . đã cho thấy rằng các cây này rất phù hợp với điều sinh khí hậu của khu vực. Hay nói cách khác, đây là những loại cây có thể sử dụng để phát triển rừng ngập mặn trong ở ven biển Thái Bình. Ở các khu vực ven biển huyện Giao Thủy tỉnh Nam Định, nơi có điều kiện sinh khí hậu tương tự như Thái Bình, một số loài cây từ nơi khác đã được đem trồng như Dừa nước Nipa fruticans và Cóc đỏ Lumnitzera littorea đem từ Cần Giờ, Bần không cánh Sonneratia apetala đem từ Myanmar [23, 24]. Dừa nước Nipa fruticans thuộc họ Dừa. Trên thế giới có diện phân bố từ Sri Lanka và châu thổ sồng Hằng qua Tây Thái Bình Dương. Ở Nam và Đông Nam Á, nó có mặt ở Sri Lanka là nơi được có diện tích được mở rộng do trồng trọt, Ấn Độ, Bangladesh, Myanmar, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Brunei Darussalam, Cambodia, Việt Nam, Trung Quốc đảo Hải Nam, Nhật Bản giới hạn phía Bắc của loài là đảo Iriomote. Ở Châu đại dương, loài này có ở Bắc Úc, Micronesia, Guam, Palau, Papua New Guinea, quần đảo Solomon [9]. Ở Việt Nam Dừa nước hiện nay phân bố chủ yếu ở các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ; Dừa nước tự nhiên hiện không có ở các tỉnh miền Bắc. Dừa nước thường mọc ở đoạn cửa sông xa biển, trên các bãi triều [10]. Giới hạn Bắc của loài là đảo Iriomote Nhật Bản, nơi có nhiệt độ trung bình năm 23,6 °C, nhiệt độ trung bình các tháng dao động trong khoảng từ 18,3 °C tháng I đến 28,9 °C tháng VII, lượng mưa 2309 mm/năm, chịu tác động của bão, so với sinh khí hậu Thái Bình thì tính chất sinh khí hậu khá tương đồng, ngọai trừ lượng mưa có cao hơn. Thử nghiệm đem Dừa nước từ Bến Tre về tại Quảng Ninh từ năm 1996 đến năm 2007 cho thấy loài này có thể phát triển song khả năng sinh trưởng có kém hơn với nơi nó được đem đi [25]. Như vậy, có thể thấy Dừa nước có thể phát triển được ở khu vực ven biển Thái Bình. Cóc đỏ Lumnitzera littorea thuộc họ Bàng, phân bố ở Nam Á bao gồm Brunei Darussalam, Indonesia, India, Malaysia, Singapore, Thailand, Viet Nam, Trung Quốc đảo Hải Nam, Đài Loan. Nó cũng phân bố rộng rãi ở các đảo trên Thái Bình Dương như Papua New Guinea, quần đảo Solomon, New Caledonia, and Micronesia [9]. Ở Việt Nam, Cóc đỏ phân bố ở Cần Giờ, đảo Phú Quốc, và Côn Đảo [9] loài này còn có ở Thừa Thiên - Huế đầm Phá Tam Giang, Khánh Hoà Cam Ranh, Bạc Liêu. Cóc đỏ thường sống thành cụm, mọc ở rừng ngập mặn ven biển, cửa sông, ven các đảo. Loài này có thể sử dụng làm chất đốt hoặc đồ gỗ thông thường. Ở miền Bắc Việt Nam, Cóc đỏ mới được đem trồng thử nghiệm ở Giao Thủy Nam Định, rất gần với Thái Bình. Tuy nhiên sự có mặt của loài này ở Đài Loan [9], nơi mà thực vật ngập mặn đang phát triển trong điều kiện khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình năm 22 - 25°C, lượng mưa 2500 mm/năm, chịu tác động của bão chủ yếu từ tháng V đến tháng X [26], điều kiện sinh khí hậu tương đối gần gũi với ở Thái Bình, ngoại trừ yếu tố mưa, cho thấy Cóc đỏ cũng có khả năng phát triển được ở ven biển Thái Bình. Vân và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 2017 90-99 97Bần không cánh Sonneratia apetala thuộc họ Bần chỉ phân bố ở khu vực Nam Á Bangladesh, Myanmar, and India, bao gồm các cả các đảo Andaman và Nicobar [9]. Loài này thường mọc ở đoạn cửa sông xa biển, trên các bãi triều thấp và bãi triều giữa [10], đây là loài tiên phong ở các bãi triều mới hình thành [14]. Bần không cánh có thể sử dụng trong xây dựng hoặc làm củi, quả ăn được. Bần không cánh đã được đem trồng ở Quảng Đông và Phúc Kiến của Trung Quốc [9]. Bần không cánh phát triển tốt tại Trung Quốc kể từ khi được đem trồng năm 1985 đến nay và loài này chịu được lạnh, có thể duy trì sinh trưởng bình thường ở nơi có nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất là 14,1°C, và nhiệt độ tối thấp là 0,2°C [27]. Cây này cũng đã được mang từ Myanmar về trồng thử nghiệm tại Giao Thủy Nam Định. Như vậy, Bần không cánh có thể trồng được ở ven biển Thái Bình. Nhìn chung, về mặt sinh khí hậu, rừng ngập mặn ở khu vực ven biển Thái Bình có thể phát triển tốt. 14 loài thực vật ngập mặn chủ yếu ở Thái Bình đều thích nghi được với điều kiện khu vực. Nhiều cây trong số này có thể sử dụng làm thuốc chữa bệnh, thực phẩm, chất đốt, xây dựng. Song quan trọng hơn cả là các loài cây này là thành phần chính tạo nên hệ sinh thái rừng ngập mặn, bảo tồn đa dạng sinh học, chống xói lở, bảo vệ đê biển, che chắn cho dân cư ven biển trước sự tấn công của bão. Chính vì vậy, đã từ lâu đời, ông cha ta đã biết trồng rừng ngập mặn để khai hoang lấn biển mở rộng diện tích môi trường sinh sống và sản xuất ở vùng ven biển Thái Bình nói riêng cũng như toàn vùng đồng bằng sông Hồng nói chung. Một số loài như Dừa nước Nipa fruticans, Cóc đỏ Lumnitzera littorea và Bần không cánh Sonneratia apetala được nhập trồng ở khu vực lân cận cũng có thể phát triển được ở Thái Bình. Các loài khác nếu đem trồng tại đây thì cần có những đánh giá đối sánh điều kiện sinh khí hậu khu vực ở đó, với khu vực Thái Bình để có được những quyết định hợp lý. Ở Thái Bình một số điều kiện sinh khí hậu chính làm hạn chế khả năng sinh trưởng và phát triển của cây, ảnh hưởng đến sự phát triển rừng ngập mặn là - Từ tháng XII đến tháng II là thời kỳ khô hạn, đây cũng là thời kỳ mùa đông lạnh với nhiệt độ thấp - Tháng I có nhiệt độ tối thấp trung bình tháng dưới 15°C - Tháng XII và tháng I là các tháng có nhiệt độ tối thấp tuyệt đối dưới 5°C - Từ tháng V đến tháng IX là các tháng có nhiệt độ tối cao tuyệt đối trên 35°C - Từ tháng V đến tháng X, đặc biệt từ tháng VII đến tháng IX, thường có tác động của bão và áp thấp nhiệt đới. Đây là những bất lợi sinh khí hậu chính cần lưu tâm để có các kế hoạch trồng rừng và chăm sóc cây hợp lý. 4. Kết luận Thực vật ngập mặn ở dải ven biển Thái Bình chủ yếu liên quan đến các quần xã rừng tự nhiên, quần xã rừng trồng, quần xã thực vật trong đầm nuôi thủy sản và quần xã cỏ tiên phong ở vùng đất mới bồi. Thực vật ngập mặn chủ yếu ở đây có 14 loài bao gồm 1 loài thuộc ngành dương xỉ; 13 loài thuộc ngành Hạt kín 12 loài lớp 2 lá mầm, 1 loài thuộc lớp 1 lá mầm. Xét trên tổng thể khu vực ven biển Thái Bình có chế độ nhiệt, chế độ mưa ẩm, về cơ bản, cho phép phát triển rừng ngập mặn ở đây. Biên độ nhiệt năm tương đối cao, lượng mưa hơi thấp có thể làm hạn chế về số lượng, thành phần loài, kích thước cây ngập mặn trong khu vực so với các nơi khác. Với điều kiện sinh khí hậu hiện tại, các loài thực vật ngập mặn chủ yếu của Thái Bình và một số loài được nhập trồng ở khu vực lân cận đều có thể phát triển tốt ở đây. Do vậy, địa phương có thể sử dụng các loài cây này để phục hồi, phát triển, mở rộng diện tích rừng ngập mặn. Ở khu vực ven biển tỉnh Thái Bình, thực vật ngập mặn chịu tác động tiêu cực của các điều kiện thời kỳ khô hạn vào đầu mùa đông; thời tiết lạnh trong những đợt gió mùa cực đới hoạt Vân và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 2017 90-99 98động mạnh; thời tiết nóng trong những tháng mùa hè và tác động của bão và áp thấp nhiệt đới. Các nhận định nêu trên mới chỉ xét dưới góc độ khí hậu, sinh khí hậu. Đây là một trong những cơ sở khoa học góp phần định hướng phát triển rừng ngập mặn. Để có một định hướng đúng đắn, khoa học hơn cần có những đánh giá thêm dưới góc độ các chuyên ngành khoa học khác. Lời cảm ơn Bài báo được tài trợ từ đề tài 02/15-16 do TS. Lưu Thế Anh chủ nhiệm. Tài liệu tham khảo [1] Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình, Quyết định số 1894/QĐ-UBND ngày 13/7/2016 về việc “Phê duyệt kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng tỉnh Thái Bình giai đoạn 2016-2020”. Thái Bình, 2016. [2] Lâm Công Định, Sinh khí hậu ứng dụng trong lâm nghiệp ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1992. [3] Đặng Thị Hồng Thủy, Khí tượng Nông nghiệp, NXB Đại học Quốc gia Hà nội, 2003. [4] Nguyễn Khanh Vân, Nguyễn Thị Hiền, Phan Kế Lộc, Nguyễn Tiến Hiệp, Các biểu đồ sinh khí hậu Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000. [5] Trần Văn Thụy, Phan Tiến Thành, Đoàn Hoàng Giang, Phạm Minh Dương, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Minh Quốc, Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến một số hệ sinh thái ven biển tỉnh Thái Bình và khả năng ứng phó. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, Tập 32, Số 1S 2016. [6] Nguyễn Thị Kim Cúc, Đào Văn Tấn, Nghiên cứu thực vật vùng rừng ngập mặn xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình Trong Phan Nguyên Hồng chủ biên. Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển đồng bằng sông Hồng Đa dạng sinh học, sinh thái học, kinh tế, - xã hội - quản lý - giáo dục, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 2004 35. [7] Đoàn Đình Tam, Một số đặc điểm thực vật vùng rừng ngập mặn tại Đông Long - Tiền Hải - Thái Bình, Tạp chí Khoa học Lâm nghiệp 4 2013 3009. [8] Mai Sỹ Tuấn, Phan Hồng Anh, Thảm thực vật vùng rừng ngập mặn thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Tiền Hải, Thái Bình Trong Phan Nguyên Hồng, Nguyễn Thị Kim Cúc, Vũ Thục Hiền Phục hồi rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 2008 305. [9] International Union for Conservation of Nature IUCN, 2010. Red List of Threatened Species ver. [10] Robertson, and Alongi, Tropical Mangrove Ecosystems. American Geophysical, 1992. [11] Chandrasekaran M., Senthilkumar A., Venkatesalu V., Antibacterial and antifungal efficacy of fatty acid methyl esters from the leaves of Sesuvium portulacastrum L.. European Review for Medical and Pharmacological Sciences. 15 7 2011 775-780. [12] Peng, L. and Xin-men, W., Ecological notes on the mangroves of Fujian, China. In Teas ed., Biology and Ecology of Mangroves, Boston 1983 31. [13] Phan Nguyên Hồng, Sinh thái thảm thực vật rừng ngập mặn Việt Nam, Luận án Tiến sỹ khoa học sinh học, chuyên ngành Sinh thái học, 1991. [14] Terrados, J., Thampanya, U., Srichai, N., Kheowvongstri, P., Geertz-Hansen, O., Boromthanarath, S., Panapitukkul, N. and Duarte, The effect of increased sediment accretion on the survival and growth of Rhizophora apiculata seedlings. Estuarine, Coastal and Shelf Science 45 1997 697. [15] Tomlinson P. B., The botany of mangroves. Cambridge University Press, Cambridge. 1986 413. [16] Ellison J., 'How South Pacific mangroves may respond to predicted climate change and sea level rise', in Gillespie, A. and Burns, W. eds, Climate Change in the South Pacific Impacts and Responses in Australia, NewZealand, and Small Islands States. Kluwer Academic Publishers, Dordrecht, Netherlands, Chapter15 2000 289. [17] Phan Nguyên Hồng, Rừng ngập mặn Việt Nam, Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 1999. [18] Clough Andrews and Cowan Primary Productivity of Mangroves. Australian Institute of Marine Science, Townsville, and Australian National University Press, Canberra, Australia, 1982. [19] Ball M., Ecophysiology of mangroves. Trees 2 1988 129. Vân và nnk. / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN Các Khoa học Trái đất và Môi trường, Tập 33, Số 1 2017 90-99 99[20] Phan Nguyen Hong, Hoang Thi San, Mangrove of Vietnam. IUCN. Bangkok. Thailand, 1993. [21] Millan, C., Environmental factors effecting seedling establishment of the black mangrove on the central Texas coast. Ecology 52 1971 927. [22] Andrews Muller Photosynthetic gas exchange properties and carbon isotope ratios of some mangroves in North Queens-land. In Teas, Physiology and Management of Mangroves, Tasks for Vegetation Science, vol. 9. Dr. W. Junk, The Hague, 1984 15. [23] Phan Nguyên Hồng, Đào Văn Tấn, Vũ Thục Hiền, Trần Văn Thụy, Thành phần và đặc điểm của thảm thực vật vùng rừng ngập mặn huyện Giao Thủy Trong Phan Nguyến Hồng chủ biên. Hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển đồng bằng sông Hồng Đa dạng sinh học, sinh thái học, kinh tế, - xã hội - quản lý - giáo dục, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2004 51. [24] Lê Xuân Tấn, Phan Nguyên Hồng, Phan Thị Anh Đào, Vũ Thục Hiền, Quản Thị Quỳnh Dao, Phan Hồng Anh, Vũ Đình Thái, Trần Minh Phượng, Phan Thị Minh Nguyệt, Hệ sinh thái rừng ngập mặn huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định và một số vấn đề quản lý. Trong Phan Nguyên Hồng, Nguyễn Thị Kim Cúc, Vũ Thục Hiền Phục hồi rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững, NXB Nông nghiệp, Hà Nội 2008 151. [25] Hoàng Công Đãng, Đỗ Thanh Vân, Một số kết quả nghiên cứu trồng Dừa nước Nipa fruticans Wurmb ở Quảng Ninh. Trong Phan Nguyên Hồng, Nguyễn Thị Kim Cúc, Vũ Thục Hiền Phục hồi rừng ngập mặn ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững. NXB Nông nghiệp, Hà Nội 2008 221. [26] Kuei-Chu Fan, Mangrove in Taiwan current status and restoration projects. Bois et forêts des tropiques, N273 3 2002 43. [27] Hai Ren, Hongfang Lu, Weijun Shen, Charlie Huang, Qinfeng Guo, Zhi’an Li, Shuguang Jian, Sonneratia apetala in the mangrove ecosystems of China An invasive species or restoration species?. Ecological Engineering 35 2009 1243. Bioclimate and Mangrove Development in Thai Binh Coastal Zone Tran Thi Thuy Van, Luu The Anh, Hoang Luu Thu Thuy, Le Ba Bien Institute of Geography, Vietnam Academy of Science and Technology, 18 Hoang Quoc Viet, Hanoi, Vietnam Abstract In spite of occupying a small area, mangrove has a great sigfinicance in terms of ecological and environmental protection in the two coastal districts of Thai Binh province. Mangrove development in this area is proposed on the regional analytical bases of mangrove current status, climatic and bioclimatic conditions with the ecological thresholds. Thai Binh littoral zone has 14 major mangrove plants, belonging to the following communities natural forest, planted forest, aquaculture related plants, pioneer plants in newly formed tidal flats. In general, the regional bioclimatic conditions are suitable for mangrove forestation with 14 local present major species and 3 others newly introduced in adjacencies such as Nipa fruticans, Lumnitzera littorea and Sonneratia apetala. The bioclimatic restraints for mangrove development in this area includes dry in the early winter, cold weather in polar monsoon activity; hot weather in summer, storms and tropical depressions. Keywords Bioclimate, mangrove, Thai Binh. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this the end of 1990s when China initiated a 10-year mangrove reforestation project, the mangrove forest area had decreased from 250,000 to 15,000 ha. Over 80% of current Chinese mangroves are degraded secondary forests or plantations. As an initial restoration and reforestation effort, Sonneratia apetala, a native of India, Bengal and Sri Lanka, was introduced in 1985 to Dong Zhaigang Mangrove Nature Reserve in Hainan Island from Bengal. It has then been introduced into other places since 1991. However, the further use of the species is becoming increasingly controversial as there are emerging signs that it may become invasive in certain locations. A comprehensive evaluation of the species’ condition in China regarding benefits and risks is critically needed. Here, we map the introduction and dispersal routes and monitor the growth of S. apetala in China from 1985 to 2006. S. apetala grows fast and performs well in the introduced 2300 ha muddy beaches area. It greatly improves the soil fertility and shows a suite of suitable characteristics as a pioneer restoration species. Currently, no natural invasion of S. apetala has been observed in the northern mangrove area. However, invasion into natural forests does occur in southerly locations such as Shenzhen, Zhanjiang and Dong Zhaigang. In these locations, S. apetala exhibits invasive characteristics such as overgrowth and high spreading ability that evidently affects local mangrove ecosystem structure and function. While the species clearly offers some benefits at some locations where it cannot naturally invade, it appears harmful to other native mangrove species, posing a major practical problem to both ecologists and land managers. This situation will be similar to previously imported non-native and invasive intertidal wetland species, Spartina alterniflora smooth cordgrass, with similar results and fatty acid methyl esters FAME extract from Sesuvium S. portulacastrum was studied for its fatty acid composition and antimicrobial activity against human pathogenic microorganisms. The gas chromatographic analysis of FAME extract revealed the presence of palmitic acid with the highest relative percentage followed by oleic acid linolenic acid linoleic acid myristic acid and behenic acid The saturated fatty acids were higher than the unsaturated fatty acids. FAME extract showed the highest antibacterial and anticandidal activities and moderate antifungal activity against the tested microorganisms. The highest mean zone of inhibition mm and the lowest MIC mg/ml and MBC mg/ml values were recorded against Bacillus subtilis. The lowest mean zone of inhibition mm and the highest MIC 8 mg/ml and MFC 16 mg/ml values were recorded against Aspergillus fumigatus and Aspergillus niger. The results of the present study justify the use of S. portulacastrum in traditional medicine and the FAME extract can be used as a potential antimicrobial agent against the tested human pathogenic LinXin-Men WeiFunjian Province, in the subtropical zone of China, has six mangrove species Bruguiera gymnorrhiza, Kandelia candel, Excoecaria agallocha, Acanthus ilicifolius, Aegiceras corniculatum, and Avicennia marina. Along the southern coastal portion of Fujian all six species and several associations occur; in the middle region four species and fewer associations are found; and in the northern region only Kandelia candel occurs. The northern region at 27° 20′ is the northern most extent of mangroves on the China coast. The height of Kandelia candel was correlated with soil salinity and subsurface nitrogen content of the soil. Heavy growth of barnacles on Kandelia candel trunks was associated with poor growth of the J. Andrews Barry F CloughG. J. MullerThe gas exchange properties of fully expanded leaves on mature trees of Rhizophora stylosa and R. apiculata at Hinchinbrook Island, North Queensland were studied using a measurement system based on infrared gas analysers and dew point hygrometers. In some cases, CO2 and water vapour exchange were followed in diurnal tracking’ experiments under natural illumination. Leaf temperature and the vapour pressure deficit inside the leaf chamber were maintained under changing conditions which simulated those experienced by other leaves in the canopy at the time. These experiments revealed that leaf temperature was a key factor controlling assimilation under natural McMillanThe effects of salinity, water turbulence, water depth, and temperature on the establishment of seedlings of black mangrove Avicennia germinans L. on the central Texas coast were evaluated in the laboratory. Salinity was not the chief factor limiting seedling establishment, because seedlings rooted in distilled water and in salinities approaching twice the concentration of sea water. Water turbulence, either of distilled or sea water, inhibited root and seedling development. Seedlings tumbled for as much as 12 weeks showed rapid root development when subsequently stabilized. Various water depths promoted extensive root systems, but seedlings did not become established until water depth was reduced to 5 cm or less. High temperature treatment, exposure to 39 degrees -40 degrees C for 48 hr, was lethal to stemless seedlings, but not to seedlings with stems and roots. The results suggest that vivaparous development in this A. germinans population phenologically timed by environmental relations during winter and early spring as a protection against the lethal effects of the high temperatures that prevail on beaches and in shallow water during late spring and effects of experimental sediment accretion on the survival and growth of Rhizophora apiculata seedlings planted on an expanding mud flat in Pak Phanang Bay south-east Thailand were assessed. Seedling mortality rates increased linearly R2 = F= P4 cm sediment accretion and, therefore, afforestation programmes based on this species are unlikely to be successful in such areas. Marilyn C BallMangrove forests are of major ecological and commercial importance, yet the future of these resources is threatened by pollution, development and over-exploitation. There is an urgent need to develop sound management practices based on a functional understanding of the physical and biological processes underlying mangrove ecosystem dynamics. Such biological processes include dispersal Rabinowitz 1978, herbivory Smith 1987 and the physiological bases of species interactions and responses to environmental factors. Understanding these processes is essential for the development of more comprehensive and predictive modelling of mangrove ecosystem dynamics than has previously been possible. Rừng ngập mặn là khu vực rừng bao gồm nhiều loại cây sống trong các khu vực nước mặn ven biển trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, nơi đây, những thực vật khác rất khó để sinh trưởng và phát triển. Phần lớn những khu vực này lộ ra khi thuỷ triều xuống thấp và bị ngập nước khi mực nước triều dâng lên. Chính vì những điều kiện khắc nghiệt đó nên chỉ có một số loại cây ngập mặn với các đặc tính của mình mới có thể thích nghi được. Đặc điểm rừng ngập mặn Hệ sinh thái thực vật và động vật tạo nên sự phong phú cho hệ sinh thái rừng ngập mặn. Để có thể tạo nên sự đa dạng và phong phú cho hệ sinh thái rừng ngập mặn thì cần phải có một số yếu tố sau Hệ sinh thái thực vật Hệ sinh thái thực vật ở rừng ngập mặn rất đa dạng và phong phú như sú, đước, vẹt, tràm, mắm… Đây là những loại thực vật đặc trưng nhất của rừng ngập mặn. Hiện nay còn có một số loại cây cỏ và một số loại cây bụi cũng có khả năng sống ở trong môi trường rừng ngập mặn rất nhiều. Điều này sẽ góp phần tạo ra sự đa dạng cho hệ sinh thái rừng ngập mặn. Những loại thực vật ở rừng ngập mặn thường phát triển với bộ rễ chùm giống như nơm, chúng phát triển một cách chằng chịt giúp chúng có thể phát triển và bám chắc trên nền đất. Việc những loại thực vật ở đây rễ được phát triển dạng chùm có thể giúp có công dụng trong việc giảm đi sức chảy của dòng nước và tạo điều kiện cho trầm tích được bồi tụ. Hệ sinh thái động vật Ở hệ sinh thái rừng ngập mặn ngoài sự phát triển của những thoại thực vật thì ở đây cũng là nơi sinh sống của rất nhiều loại động vật và phần lớn là những loại hải sản. Một số loại động vật sống dưới nước như tôm, cua, cá, rùa, sò và gồm nhất nhiều động vật đáy. Những loài động vật trên cạn như khỉ, cò... Nơi đây cũng là một một trường sống lý tưởng cho nhiều loài vi sinh vật như tảo, nấm và cây dương xỉ. Điều kiện sinh thái ở khu vực rừng ngập mặn Bên cạnh việc tìm hiểu khái niệm và định nghĩa về rừng ngập mặn là gì, chúng ta cũng cần lưu tâm đến các điều kiện sinh thái ở khu vực rừng ngập mặn. Dưới đây là một số nhân tố quan trọng Khí hậu Các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, gió và lượng mưa là điều kiện ảnh hưởng đến phạm vi diện tích khu vực rừng ngập mặn và kích thước phát triển của các loài thực vật trong rừng như đước, trang, vẹt, sú… Địa hình Địa hình bờ biển nông cạn, ít sóng là điều kiện lý tưởng để rừng ngập mặn phát triển. Còn đối với những khu vực có bờ biển hẹp, sâu và khúc khuỷu thì thường không có sự xuất hiện của rừng ngập mặn tự nhiên. Thuỷ văn Các điều kiện như thuỷ triều, dòng hải lưu và dòng nước ngọt không chỉ có ảnh hưởng trực tiếp lên các loại thực vật trong rừng qua độ ngập nước, thời gian ngập nước, độ mặn… mà còn ảnh hưởng tới sự sinh trưởng và phát triển của các loài động thực vật trong rừng. Độ muối Đúng như tên gọi của nó, độ mặn trong nước đóng vai trò quan trọng ở các khu vực rừng ngập mặn. Độ mặn lớn hay nhỏ còn quy định sự phân bố khác nhau của các loài thực vật ngập mặn. Có nhiều loài cây chỉ phát triển được ở những độ mặn nhất định và lý tưởng nhất là khu vực có độ mặn từ 15 – 25‰. Vai trò quan trọng của rừng ngập mặn Rừng ngập mặn là gì? Vai trò của rừng ngập mặn ra sao? Có thể thấy, rừng ngập mặn ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung có nhiều vai trò đáng kể Đối với kinh tế – xã hội Cung cấp thực phẩm như thuỷ sản tôm, cá, mực…, mật ong, đường… Cung cấp một số loại cây thuốc nam có thể chữa bệnh thông thường như cây đước… Cung cấp gỗ và các sản phẩm làm từ gỗ. Tạo sinh kế cho người dân du lịch, nông nghiệp, thuỷ sản… Đối với hệ sinh thái Rừng ngập mặn chính là môi trường sống cho nhiều loài động vật và thực vật như vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn… Du lịch sinh thái và trung tâm nghiên cứu khoa học Bảo vệ sự đa dạng sinh học Đối với môi trường Rừng ngập mặn có vai trò điều hoà khí hậu, làm mát mẻ hơn, giảm nhiệt độ và biên độ nhiệt độ. Nhờ các loại vi sinh vật mà rừng ngập mặn có thể phân huỷ các chất thải. Giảm thiểu tác hại của sóng, bão và nước biển dâng cùng với hiện tượng xâm nhập mặn vào sâu trong đất liền. Ngăn chặn quá trình xói mòn, lắng đọng trầm tích và mở rộng vùng đất liền. Hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Việt Nam Hiện nay tổng diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam khoảng Ha. Với diện tích này thì Việt Nam đứng tốp đầu trong các quốc gia có diện tích rừng ngập mặn trên toàn thế giới. Do Việt Nam có khoảng 3260 km đường bờ biển và chạy dọc theo các tỉnh và thành phố, chính vì vậy mà rừng ngập mặn ở Việt Nam được phân bố dọc khắp đất nước hình chữ S. Ở Việt Nam có một số khu rừng ngập mặn lớn như rừng ngập mặn Cần Giờ, rừng ngập mặn Rú Chà – Huế, rừng ngập mặn nguyên sinh ở Tam giang, rừng ngập mặn ở Cà Mau. Nổi bật trong số đó là rừng ngập mặn Cần Giờ với tổng diện tích nên tới khoảng và đây cũng được mệnh danh là khu rừng ngập mặn đẹp nhất của khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam đang có nguy cơ bị đe dọa nghiêm trong do thu hẹp về diện tác và ảnh hưởng đến hệ sinh thái. Tình trạng bị thu hẹp này là do việc khai thác chặt phá rừng diễn ra một cách phổ biến và hàng ngày. Ngoài nguyên nhân ở trên thì có nguyên nhân về môi trường như gió bão, sóng biển làm biến mất các diện tích rừng cũng như môi trường bị ô nhiễm. Người đăng hoy Time 2020-10-02 155859 Bản cập nhật mới nhất của Minecraft, The Wild cuối cùng cũng có mặt ở đây và nó sẽ thêm cây Rừng ngập mặn cùng với Đầm lầy ngập mặn vào trò chơi. Nếu bạn đang tự hỏi làm thế nào bạn có thể xác định được các Đầm lầy ngập mặn này, bạn có thể cần phải khám phá một chút. Những quần xã sinh vật này chỉ đẻ trứng ở những nơi có thời tiết khá ẩm và ấm. Hãy nghĩ về những đầm lầy thông thường, và đầm lầy ngập mặn cũng khá giống nhau. Chúng sinh sản tại các địa điểm tương tự như đầm lầy thông thường, vì vậy nếu bạn đã quen với chúng, bạn cũng có thể tìm thấy chúng một cách dễ dàng. THÊM La bàn phục hồi có tác dụng gì và cách chế tạo nó trong Minecraft The Wild ? Như thường lệ, bạn cũng có thể chỉ cần sử dụng một lệnh để tìm những đầm lầy này. Tất cả những gì bạn cần làm là nhập/định vị địa chỉ mangrove_swamp vào thiết bị đầu cuối và nó sẽ tự động hiển thị cho bạn nơi có đầm lầy ngập mặn gần nhất. Xét đến thực tế là những đầm lầy này thực sự có thể ở bất cứ đâu, cách tốt nhất của bạn là sử dụng lệnh, vì việc xác định vị trí của riêng bạn có thể là một nhiệm vụ khá rắc rối. Bạn sẽ thấy rất nhiều cây ngập mặn trong những đầm lầy ngập mặn và có thể tự hỏi làm thế nào bạn có thể trồng những cây ngập mặn này. Chà, nó hơi khác so với những cây thông thường. Trong khi cây thường mọc từ cây non thì cây ngập mặn mọc từ trụ mầm. Những trụ mầm này có thể được tìm thấy trong các cây ngập mặn hiện có, vì vậy bạn cần tìm một trong số chúng trước khi có thể tự trồng cây. Sau khi lấy được trụ mầm, bạn cần đặt chúng dưới nước hoặc trên mặt đất để phát triển. Không có nhiều việc phải làm ngoài việc chờ đợi, và cây ngập mặn của bạn sẽ tự động phát triển. Xin lưu ý rằng có thể mất một chút thời gian để nó phát triển vì thời gian sinh trưởng nhiều hơn những cây thông thường. Các thủ thuật thông thường cũng hoạt động ở đây, và bạn có thể sử dụng bột xương để làm nhanh mọi thứ. NĐT – 1150 Thứ hai, 08/11/2021 Dù diện tích rừng tăng, nhưng khu rừng ngập mặn trồng 43 tuổi lớn nhất Việt Nam * này đang gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng suy giảm “sức khỏe”. Chất lượng cây và môi trường rừng kém đi, đã có những mảng cây rừng bị chết từ bên trong lõi… Vừa qua phà Bình Khánh, chỉ cách huyện Nhà Bè bên kia là con sông Soài Rạp, nhưng chúng tôi đã bỏ lại phía sau cảnh xe cộ ngột ngạt, người và khói bụi. Càng đi sâu về phía trung tâm huyện Cần Giờ không khí càng trong lành bởi con đường Rừng Sác đâm xuyên thẳng qua vùng lõi rừng ngập mặn Cần Giờ để hướng ra biển. Rừng ngập mặn và đường Rừng Sác nhìn từ trên cao. Ảnh Lê Quân Trong tổng gần ha rừng ngập mặn còn lại của Việt Nam, rừng ngập mặn Cần Giờ là khu rừng duy nhất phục hồi từ hậu quả của chiến tranh chất độc hóa học. Được hình thành trên vùng châu thổ rộng lớn của các cửa sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ, trong chiến tranh Việt Nam, rừng ngập mặn Cần Giờ đã gần như bị hủy diệt hoàn toàn bởi hơn 1 triệu gallons các hóa chất diệt cỏ, chất độc da cam. Hơn một nửa diện tích rừng bị chết. Những cánh rừng bạt ngàn xanh tốt biến thành một vùng hoang hóa, môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng nề. “Sau 1975, đa số còn lại chỉ là cây bụi cao 1 – 2m hoặc đất trống. Đứng sâu trong đất liền cũng có thể nhìn thấy rõ tàu thuyền đi lại từ biển vào cảng Sài Gòn.”, PGS-TS. Viên Ngọc Nam, Đại học Nông Lâm nhà khoa học gắn bó với công cuộc phục hồi rừng ngập mặn Cần Giờ ngay từ những ngày đầu, nhớ lại. Rừng ngập mặn bị thu hẹp? Hiện chiếm tới 97% tổng diện tích rừng và là rừng ngập mặn duy nhất của thành phố, rừng ngập mặn Cần Giờ không chỉ là lá chắn cho thành phố trước gió bão mà còn là “lá phổi” cho con người. Khu rừng cũng được ví như là “quả thận” lọc nước và chống xói lở bờ biển bảo vệ thành phố. Phân tích dữ liệu từ Clark Labs, Đại học Clark cho thấy, diện tích rừng ngập mặn land cover ở Cần Giờ tăng lên trong 20 năm qua. Từ năm 1999 – 2018, đã tăng ha rừng ngập mặn, và là tỉnh thành có mức tăng rừng ngập mặn cao thứ hai Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng hình ảnh vệ tinh để theo dõi những thay đổi trong khu vực rừng ngập mặn. Ba loại đất chính được lập bản đồ gồm rừng ngập mặn, đất ngập nước ven biển và nuôi trồng thủy sản trong ao. Tuy nhiên, từ năm 2014 – 2018, Clark cho thấy Cần Giờ đã bị giảm ha rừng ngập mặn. Xu hướng diện tích rừng ngập mặn Cần Giờ bị giảm trong những năm gần đây cũng được tìm thấy từ dữ liệu trên Global Forest Watch**. Từ năm 2016 – 2020, độ che phủ diện tích rừng Cần Giờ bị mất tree cover loss đã tăng lên hàng năm, cao nhất là năm 2020. Độ che phủ diện tích rừng được tính theo Global Forest Watch là tất cả các thảm thực vật có chiều cao lớn hơn 5 mét, có thể là rừng tự nhiên hoặc rừng trồng với độ che phủ tán cây canopy cover từ 30% trở lên. Độ che phủ diện tích rừng bị mất có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như phá rừng, cháy rừng, sâu bệnh, bão, khai thác gỗ bằng máy móc. Theo Global Forest Watch, trong vòng 20 năm qua, Cần Giờ đã bị mất tới 144 ha độ che phủ diện tích rừng, tương đương diện tích của 269 sân bóng đá. Đây thực sự là một con số rất lớn, nhất là khi theo báo cáo của cơ quan chức năng diện tích rừng ngập mặn Cần Giờ tăng hằng năm do rừng đã được trồng thêm những năm qua. Trao đổi với chúng tôi về số liệu rừng ngập mặn Cần Giờ từ Global Forest Watch, ông Lâm Tùng Quế, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm Lâm khẳng định rừng phòng hộ Cần Giờ được bảo vệ rất tốt, chỉ tăng chứ không giảm. Thống kê của Ban quản lý Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, diện tích rừng ngập mặn Cần Giờ tăng từ hơn ha kể từ khi kết thúc chiến tranh năm 1975 lên hơn ha, trong đó rừng trồng là hơn ha. Theo ông Quế, 20 năm qua, nếu diện tích rừng bị mất thì chỉ có thể là do có một số dự án đầu tư được xây dựng trong rừng, hoặc là diện tích nằm trên đất nông nghiệp. Tuy nhiên, Chi cục Kiểm lâm từ chối cung cấp bản đồ thể hiện vùng ranh rừng phòng hộ Cần Giờ. Vùng nuôi tôm tự nhiên trong rừng ngập mặn Cần Giờ. Ảnh Lê Quân Rà soát dữ liệu từ Chi cục Kiểm lâm từ năm 2001 – 2018, đã có gần 158 ha rừng phòng hộ Cần Giờ nhường chỗ cho 21 dự án đầu tư trong rừng, như đường Rừng Sác, đường truyền tải điện 110KV An Nghĩa – Cần Giờ, ống dẫn khí Phú Mỹ – trạm quản lý đường sông Duyên Hải, trung tâm dã ngoại thanh thiếu niên thành phố… Ghi nhận thực tế cũng cho thấy trong khoảng 20 năm trở lại đây, người dân đã chặt bỏ hàng loạt thảm cây ngập mặn tái sinh hoặc dừa nước trên đất nông nghiệp để làm ao nuôi tôm, thủy sản. Từ khoảng năm 2017, người dân có xu hướng san lấp nhiều ao nuôi trồng thủy sản để bán nền. Giá đất ở khu vực này đã nhảy vọt từ khoảng 200 triệu đồng/100 m2 lên tới cả tỷ đồng/100 m2 sau thông tin chính quyền thành phố sẽ xây cầu Bình Khánh và dự án đô thị lấn biển Cần Giờ. TS. Trương Văn Vinh, Phó trưởng khoa Lâm Nghiệp, trường Đại học Nông Lâm cho biết người dân được phép chặt dừa nước nằm trên đất mình sở hữu làm ao nuôi trồng thủy sản, và điều này chấp nhận được. Tuy nhiên ông lưu ý, dừa nước là một hệ sinh thái có đặc thù riêng, có khả năng chống sạt lở đường bờ rất tốt. Báo động chất lượng rừng Trong tình trạng trên, mối đe dọa lớn nhất với rừng ngập mặn Cần Giờ hiện tại có vẻ không phải vì quá ít cây mà là quá nhiều cây; một dấu hiệu cảnh báo cho việc bảo vệ rừng đang quá phụ thuộc vào một loài và thiếu kỹ thuật lâm sinh cần thiết. Việc giải đoán hình ảnh vệ tinh và khảo sát thực địa của nhiều nhà khoa học các năm qua cho thấy đã có nhiều mảng cây trong rừng ngập mặn Cần Giờ bị chết. PGS-TS. Viên Ngọc Nam nhận định “Nguyên nhân có thể vì cây rừng có mật độ quá dày nhưng đã không được tỉa thưa, gây tình trạng cây bị suy thoái, sâu bệnh, hoặc chết. Cây cao không cân đối cũng dễ ngã đổ khi bị sét đánh”. Cây rừng ngập mặn Cần Giờ do mật độ dày nên sinh trưởng kém, còi cọc, cong vẹo, sâu bệnh phát triển. Ảnh Trương Văn Vinh Sau 43 năm khôi phục lại hệ sinh thái rừng ngập mặn, rừng ngập mặn Cần Giờ chủ yếu là rừng trồng thuần loài, với loài cây chính là đước Rhizophora apiculata chiếm 97% tổng diện tích rừng trồng. “Mục đích trồng rừng đầu tiên ở Cần Giờ là phủ xanh nhanh trên diện tích đã bị huỷ hoại trong chiến tranh, Đước được trồng ở những nơi có thể sống. Sau này mới chuyển qua trồng một số loài như dà vôi, cóc trắng, vẹt tách, đưng, mấm, bần trắng… nhằm đa dạng loài”, PGS-TS. Viên Ngọc Nam giải thích nguyên nhân trồng rừng thuần loài. Dữ liệu 20 năm qua cho thấy mặc dù việc cấm tỉa thưa rừng ngập mặn Cần Giờ có thể đã góp phần tăng diện tích rừng nhưng lại gây nguy hại tới sức khỏe khu rừng. Tuy nhiên, chất lượng rừng ngập mặn Cần Giờ đang bị suy giảm. Điều này đã được các nhà khoa học gióng lên hơn chục năm qua, sau khi UBND “đột ngột” ban hành quyết định số 3172/QĐ-UB-CNN cấm tỉa thưa rừng ngập mặn Cần Giờ vào năm 1999. Một nghiên cứu đánh giá chất lượng rừng ngập mặn Cần Giờ vào năm 2009 của nhóm tác giả Phạm Thế Dũng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Nam Bộ cho thấy chất lượng rừng và môi trường nước dưới rừng đã suy giảm qua nhiều chỉ số. Sau 10 năm không tỉa thưa, nghiên cứu đánh giá dinh dưỡng mùn, đạm, lân còn khá cao trong đất và có thể đảm bảo cho sinh trưởng của cây. Tuy nhiên, sự lưu thông thoát thủy đã kém đi. Thành phần đất, cát ở nhiều nơi trong rừng, lẫn hàm lượng mùn do quá trình phân hủy của thảm mục tích tụ dài ngày đều đã vượt ngưỡng cho phép và còn khả năng tăng cao trong tương lai. Ngoài ra, không gian sống của cây rừng đã quá nhỏ, mật độ cây trồng dày đặc dẫn đến tình trạng sâu bệnh tăng dần theo tuổi, cao nhất ở cây 30 năm tuổi, gấp 6 lần cây 10 năm tuổi, khiến cây đổ ngã và ảnh hưởng đến sinh trưởng của rừng. Chất lượng rừng ngập mặn Cần Giờ đang bị suy giảm. Ảnh Trương Văn Vinh Một nghiên cứu khác, của nhóm tác giả PGS-TS. Viên Ngọc Nam công bố từ năm 2014, so sánh rừng chưa tỉa thưa với khu vực thử nghiệm đã tỉa thưa ở Cần Giờ chứng minh được rằng sau hai lần tỉa thưa, rừng ngập mặn Cần Giờ hấp thụ CO2 nhiều gần gấp đôi so với rừng chưa được tỉa thưa, ở mọi độ tuổi. Cây cũng mạnh khỏe với tán lớn hơn so với trước khi tỉa thưa. Ông Lâm Tùng Quế xác nhận hiện nay cây rừng phát triển rất kém, thân cây còi cọc, cong vẹo, dễ sâu bệnh,… Việc chỉ quan sát bằng mắt thường cũng có thể thấy những cây ở bìa rừng thường có tán rộng, có khi lên tới 20m2, bộ rễ phát triển rất đẹp, người có thể lên đứng. Nhưng đi vào trong rừng, cũng cây cùng năm trồng thì bộ rễ không phát triển mà thẳng băng, tán nhỏ vì không có không gian phát triển. Dữ liệu 20 năm qua cho thấy mặc dù việc cấm tỉa thưa rừng ngập mặn Cần Giờ có thể đã góp phần tăng diện tích rừng nhưng lại gây nguy hại tới sức khỏe khu rừng. “Chúng tôi sống nhờ vào rừng ngập mặn” Con người có thể sống hòa thuận với rừng ngập mặn. PGS-TS. Viên Ngọc Nam cho biết, Khu Bảo tồn rừng ngập mặn Matang, Malaysia là rừng trồng nhưng vẫn được khai thác gỗ để hầm than và trồng lại trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa môi trường, kinh tế và xã hội. Malaysia đã thực hiện cả trăm năm nay và rất hiệu quả. Nếu không khai thác, cây cũng sẽ chết và lãng phí lượng gỗ khá lớn. Một mảng cây rừng ngập mặn bị chết. Ảnh Lê Quỳnh Báo cáo của nhóm tác giả Huỳnh Đức Hoàn, Ban quản lý Khu Dự trữ sinh quyển Cần Giờ, cho thấy rừng ngập mặn Cần Giờ có đầy đủ dịch vụ sinh thái của một rừng ngập mặn, không chỉ cung cấp lương thực, vật liệu thô, trữ lượng gỗ, nước ngọt, dược liệu mà còn có các chức năng lọc nước, điều hòa khí hậu, chống xói lở, hỗ trợ môi trường sống các loài, đa dạng nguồn gen… “Chúng ta đang bỏ phí một nguồn nguyên liệu quý từ cây dược liệu trong rừng ngập mặn Cần Giờ”, TS. Lê Xuân Thuyên, Đại học Khoa học Tự nhiên nhận định. Gần đây, Viện nghiên cứu và phát triển Dược liệu của Đại học Nam Cần Thơ đã nghiên cứu thành công một sản phẩm hỗ trợ bảo vệ gan từ cây ô rô Acanthus ilicifolius. Những giá trị từ hệ sinh thái rừng ngập mặn Cần Giờ đã và đang nuôi sống nhiều người dân Cần Giờ hàng chục năm qua. Báo cáo từ Ban quản lý Khu dự trữ sinh quyển Cần Giờ, chỉ tính riêng giá trị thu hoạch rừng dừa nước trưởng thành của rừng ngập mặn đã khoảng 158 tỷ đồng/năm. Con số này tương đương với tổng thu nhập của khoảng người dân Cần Giờ tính theo mức thu nhập bình quân năm 2020 42,75 triệu đồng/người/năm, gần bằng 1/20 dân số toàn huyện Cần Giờ. “Chúng tôi sống nhờ vào rừng ngập mặn. Tôi đã làm nghề rừng hơn 20 chục năm nay”, anh Nguyễn Trường Hòa, ấp Ba Nghĩa xã An Thới Đông, huyện Cần Giờ, cho biết. “Nghề rừng” của anh Hòa là ban ngày vào rừng chặt quả hoặc lá dừa nước, đào bắt cua, rộp, ốc, đêm đi soi nha ba khía, giăng lưới bắt cá,… Không có đất sản xuất, học không cao, Hòa cho biết cuộc sống của anh và 70% người dân ở ấp anh chỉ biết dựa vào rừng. Thu nhập mỗi tháng của anh Hòa khoảng 8 – 9 triệu đồng, nuôi cả gia đình gồm hai đứa con đang học tiểu học và vợ nội trợ. Giật gấu vá vai. Anh Hòa đã bắt đầu nghĩ muốn lên bờ làm nhưng không có vốn. Người đàn ông này đang hi vọng kênh youtube Cuộc sống Cần Giờ do mình tự làm có thể là một lối ra. Nhưng khó và lo. Không chỉ vì phổi Hòa đã yếu đi vì long nước nhiều, mà còn vì lượng thủy hải sản ngày một cạn. Theo anh Hòa, so với 10 năm trước, lượng thủy hải sản đã giảm từ 50 – 70%. Anh Nguyễn Trường Hòa sống nhờ vào rừng và bằng nghề rừng. Ảnh CTV Nghề nuôi tôm cá tự nhiên trong rừng ngập mặn Cần Giờ của người dân cũng ngày một thất bát. Ông Nguyễn Văn Thẳng sống nhờ rừng bằng nghề nuôi tôm cá tự nhiên đã hơn 20 năm. Từ các con rạch tự nhiên trong rừng, ông Thẳng khoanh đắp bờ bao xung quanh để giữ nước, tạo môi trường tự nhiên cho các loài tôm, cá sinh thả vào sống và phát triển. Tuy nhiên, theo năm tháng, tôm lớn lên dễ bị bệnh hơn, kéo theo mất mùa. Với tổng 6 ha đầm nước nằm giữa bốn bề là rừng, nếu cách đây 10 năm, ông Thẳng mỗi lần thu hoạch có thể được tới vài ba tấn tôm thì nay chỉ còn khoảng 300-400 kg tôm; chưa kể cá, cua, ốc bắt thêm. Được đền bù giải tỏa khỏi rừng, hoặc hướng dẫn cách nuôi trồng mới phù hợp hơn trong rừng, đó là mong mỏi của ông nhiều năm nay. Nguồn lợi thủy sản ngày càng giảm, nguyên nhân không chỉ vì có nhiều người vào rừng kiếm sống và phương tiện đánh bắt “hiện đại” hơn. Nguồn nước bị ô nhiễm cũng là một trong những nghi vấn lớn nhất qua quan sát của người dân ở đây. Chỉ tính riêng giá trị thu hoạch rừng dừa nước trưởng thành của rừng ngập mặn đã khoảng 158 tỷ đồng/năm. Ảnh CTV Thống kê, cứ 10 người thì có 4 người dân huyện Cần Giờ làm nghề nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản, nông nghiệp dựa vào tài nguyên thiên nhiên hệ sinh thái rừng ngập mặn và biển. Chỉ tính trong phạm vi rừng phòng hộ Cần Giờ bao gồm diện tích mặt nước sông rạch, năm 2020 có gần hộ dân nuôi trồng sản xuất, chủ yếu qua các nghề nuôi thủy sản tự nhiên trong đầm ao, làm muối, nuôi hàu và đóng đáy. Chưa kể lượng người dân tự do ra vào rừng đánh bắt thủy hải sản tự nhiên và các tài nguyên khác trong rừng, không chỉ là người dân Cần Giờ mà còn ở các tỉnh lân cận Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An,…. Làm sao để người dân địa phương được hưởng lợi nhiều nhất từ những giá trị của rừng ngập mặn Cần Giờ, trong đó gồm các giá trị sinh thái và văn hóa mà khu rừng này mang lại? Tiền không lẽ chỉ đổ vào túi của các công ty tư nhân xuống Cần Giờ làm du lịch? Du lịch homestay là một gợi ý của các chuyên gia nhiều năm qua. Điều này giúp người dân gắn bó và ý thức bảo vệ rừng hơn. Chiến lược đảo ngược thiệt hại với rừng ngập mặn vấp phải sự hoài nghi Nhiều chuyên gia đồng ý rằng cần chiến lược khôi phục chất rừng ngập mặn Cần Giờ tích cực hơn. Ông Đinh Minh Hiệp, Giám đốc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết Sở đã tổng hợp báo cáo vấn đề tỉa thưa rừng ngập mặn Cần Giờ nhưng đến nay UBND thành phố chưa có ý kiến chính thức. Ngoài ra, Sở đang xây dựng Quy chế quản lý và phát triển rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp, trong đó có vấn đề tỉa thưa để tham mưu cho UBND thành phố. Điều này sẽ giúp quản lý và bảo vệ chất lượng rừng ngập mặn Cần Giờ tốt hơn trong tương lai. Sông Lòng Tàu là khu vực có nhiều tàu thuyền đi lại, rừng ngập mặn Cần Giờ giúp khu vực này giảm bớt tình trạng sạt lở. Tuy nhiên chất lượng rừng đang suy giảm. Hình ảnh cho thấy cây rừng ngập mặn dọc sông Lòng Tàu có mật độ quá dày, cây còi cọc, cong vẹo,… Ảnh Trương Văn Vinh PGS-TS. Viên Ngọc Nam cho rằng phần diện tích rừng ngập mặn tự nhiên Cần Giờ hiện nay đã đa dạng loài, là rừng tự nhiên nên có sẵn cơ chế tự cân bằng nên không cần bất kỳ tác động nào vào. Tuy nhiên, hơn ha rừng trồng hiện nay đã 43 tuổi, quá tuổi thành thục 21 tuổi nên chất lượng rừng đã bị suy thoái. Vì vậy, việc tỉa thưa rừng không còn phù hợp nữa. Thay vào đó, nên khai thác toàn bộ diện tích rừng trồng này với một tỷ lệ an toàn và kỹ thuật thích hợp, lần lượt, và trồng lại đa dạng loài cây thích hợp với lập địa cụ thể và sinh thái của từng loài. Quyết định số 4533/QĐ-BNN/KHCN năm 2002, và sau là quyết định số 5365/QĐ-BNN-TCLN năm 2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đều có quy định tỉa thưa với rừng đước trồng thuần loài. Tìm hiểu của chúng tôi, một kết quả của Thanh tra về quản lý và sử dụng đất rừng phòng hộ Cần Giờ vào tháng đã kết luận ban quản lý rừng đã không tỉa thưa để đảm bảo mật độ cây theo quy định, đồng thời chưa thực hiện nghiên cứu về tuổi lão hóa của các loài cây đặc trưng để có kế hoạch đảm bảo phủ độ xanh, chất lượng rừng và phát triển bền vững. Chưa thấy phản hồi từ UBND về lý do tại sao cấm tỉa thưa rừng ngập mặn Cần Giờ từ năm 1999. Rừng ngập mặn Cần Giờ có vai trò đặc biệt quan trọng với và khu vực, đặc biệt trong ứng phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Cần Giờ lại là vùng đất yếu, nguy cơ sẽ còn tiếp tục bị lún. Hiện nay khuynh hướng trên Biển Đông đã xuất hiện nhiều cơn bão mạnh và xuống phía Nam nhiều hơn. Dự báo trong tương lai, có thể những cơn bão lớn có ảnh hưởng trực tiếp lên khu vực nói chung và Cần Giờ nói riêng, sẽ tăng cả về số lượng, mức độ và cường độ. “Nếu sức khỏe rừng ngập mặn không còn, toàn bộ hệ sinh thái vùng sẽ bị đứt gãy, tác động tiêu cực. Để phục hồi lại được phải cần một thời gian rất dài”, PGS-TS. Viên Ngọc Nam cảnh báo. Lê Quỳnh Bài viết được hỗ trợ bởi Mekong Data Journalism Fellowship do Internews’ Earth Journalism Network và East-West Center phối hợp tổ chức ______________ * Cà Mau là tỉnh có tổng diện tích rừng ngập mặn lớn nhất cả nước nhưng rừng ngập mặn nằm phân tán ở nhiều huyện khác nhau. Tính theo diện tích liền khoảnh, rừng ngập mặn Cần Giờ lớn nhất cả nước. ** Global Forest Watch là một nền tảng trực tuyến cung cấp dữ liệu và công cụ để giám sát diện tích rừng đang thay đổi trên toàn thế giới. Nền tảng này là sáng kiến của Viện Tài nguyên Thế giới World Resources Institute, các đối tác bao gồm Google, USAID, Đại học Maryland, Esri, Vizzuality, và nhiều tổ chức học thuật, phi lợi nhuận, công và tư khác. 12/10/2018 82444 AM Rừng ngập mặn là loại rừng cây mọc ở cửa sông lớn ven biển, nơi nước mặn hòa với nước ngọt. Khi thủy triều lên, rừng sẽ bị ngập một phần, có khi toàn bộ trong nước biển; khi nước triều xuống, rừng lại hiện ra nguyên vẹn. Đây là khu vực có giá trị cả về kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh, môi trường sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học. Theo đánh giá của các nhà khoa học, rừng ngập mặn ở nước ta nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại và được phân bố từ Bắc đến Nam, theo 4 khu vực và 12 tiểu khu1; trong đó, rừng quốc gia U Minh là rừng ngập mặn lớn nhất Việt Nam, với diện tích lên đến Thực vật ở rừng ngập mặn chủ yếu là các loại cây có bộ rễ nơm, như đước, sú, vẹt, tràm, mắm, cùng các loài cỏ, cây bụi,… làm “bức tường” chắn sóng, giữ đất, tạo điều kiện cho trầm tích bồi tụ nhanh hơn. Đây cũng là nơi cư trú của các loài chim; vườn ươm cho các loài cá, với hơn 80% các loại hải sản dành một phần đời để trú ngụ, bởi đó là mái nhà bảo vệ chúng trước những hiểm nguy trong lòng đại dương. Đồng thời, rừng ngập mặn còn có tác dụng như “bộ lọc” hấp thu các chất độc hại trong nước, điều hòa khí hậu trong vùng, bảo vệ cuộc sống con người, Rừng tràm U Minh Hạ ở Cà Mau. Ảnh TTXVN Xuất phát từ vị trí, vai trò của rừng ngập mặn, sau khi đất nước thống nhất, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách về bảo vệ, phát triển các khu rừng này. Nhờ đó, nhiều khu vực rừng ngập mặn được phục hồi, mở rộng; trong đó, rừng U Minh, rừng ngập mặn Cần Giờ đã trở thành điểm du lịch hấp dẫn du khách; là liều thuốc hồi sinh cho các vùng đất hoang hóa một thời do chất độc hóa học của chiến tranh. Tuy nhiên, với nhiều nguyên do khác nhau, việc bảo vệ, giữ gìn các khu rừng ngập mặn ở một số khu vực, địa phương chưa được chú trọng, thậm chí còn bị tàn phá nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu của thực trạng trên là do quá trình khai thác, phát triển kinh tế không gắn với bảo tồn; trong đó, chủ yếu là chuyển rừng ngập mặn sang nuôi, trồng hải sản và làm nông nghiệp, Đây là những hoạt động mà trước mắt có thể đem lại lợi ích về kinh tế, nhưng hậu quả thì khôn lường. Bởi lẽ, mất rừng ngập mặn sẽ đẩy mạnh sự xâm nhập nước biển vào đất liền, thúc đẩy quá trình xói lở, mặn hóa, gây ô nhiễm đất và nguồn nước, thậm chí lượng mưa giảm hẳn, không khí nóng hơn do lượng khí CO2 tăng,… ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân trong khu vực và sự phát triển bền vững. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có nhiều chủ trương, biện pháp bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn tại nhiều khu vực, địa bàn trong cả nước. Theo đó, các cấp, ngành, địa phương bước đầu tập trung xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế trong khu vực rừng, kết hợp phát triển kinh tế với bảo vệ rừng; nghiên cứu, phát triển các ngành nghề nuôi, trồng thủy sản ở các vùng biển khác để nhường diện tích cho rừng ngập mặn; chú trọng triển khai nhiều dự án trồng rừng theo hướng tập trung vào những khu vực trọng điểm trước, phát triển mở rộng sau. Đồng thời, các cấp cần làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò của hệ sinh thái rừng ngập mặn trong quá trình phát triển kinh tế và bảo tồn tự nhiên, nhằm giảm thiểu tác động của tình trạng biến đổi khí hậu khiến nước biển dâng, Đây là cơ sở quan trọng, tạo tiền đề cho việc giữ gìn, bảo quản, khai thác rừng ngập mặn một cách bền vững để góp phần phát triển đất nước. Nguyễn Văn Sử thực hiện _____________ 1 – Gồm 4 khu vực ven biển Đông Bắc; ven biển đồng bằng Bắc Bộ; ven biển Trung Bộ và ven biển Nam Bộ.

cây rừng ngập mặn